Cập nhật nội dung chi tiết về Trải Nghiệm Lịch Sử Bác Hồ Với Nông Dân Việt Nam mới nhất trên website Asus-contest.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Với bề dày truyền thống lịch sử của tỉnh Thái Bình, đây được xem là điều kiện thuận lợi giúp các trường học đưa những di tích ấy vào các hoạt động giáo dục trải nghiệm. Và với thầy và trò của trường Trung học phổ thông Chuyên Thái Bình thì điểm dừng chân đầu tiên đó chính là tại tượng đài Bác Hồ với nông dân Việt Nam.
Buổi trải nghiệm của thầy và trò của trường Trung học phổ thông Chuyên Thái Bình tại tượng đài Bác Hồ với nông dân Việt NamTrong không gian linh thiêng dưới chân tượng đài tại Quảng trường Thái Bình, 39 em học sinh này đang cùng nhau tham gia vào các phần thi tìm hiểu về lịch sử Bác Hồ với nông dân Việt Nam. Các em học sinh được tự do trình bày những kiến thức của mình thông qua đối đáp bằng tiếng Anh hay thể hiện những bài hát về Bác.
Em Nguyễn Xuân Toàn – Trường Trung học phổ thông Chuyên Thái Bình: “Việc tìm hiểu đây rất ý nghĩa, rất khác so với trên lớp, vì trên lớp chỉ là kiến thức học trên sách vở, còn ở đây trực tiếp nhìn thấy các di tích lịch sử, có thể hiểu rõ hơn”.
Buổi trải nghiệm của thầy và trò của trường Trung học phổ thông Chuyên Thái Bình tại tượng đài Bác Hồ với nông dân Việt Nam
Đặc biệt, các em học sinh tự tin thể hiện những cảm nhận, suy nghĩ của mình về Bác thông qua những bức tranh gắn liền với sự nghiệp của Người. Và đó cũng chính là những cách thể hiện sáng tạo, tạo nên cách tiếp cận mới về lịch sử đến với học sinh.
Em Phạm Thị Minh Thu, Trường Trung học phổ thông Chuyên Thái Bình: “Qua những bức ảnh, chúng em cảm nhận về Bác Hồ là vị lãnh tụ rất hiền hòa, gần gũi với nông dân, tình yêu mà Bác dành cho nông dân là rất to lớn. Chúng em cảm thấy rất tự hào khi đúng ở đây và thể hiện tình yêu với Bác”.
Thầy giáo Trần Đăng Khoa – Bộ môn lịch sử, trường Trung học phổ thông Chuyên Thái Bình: “Để dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh, thì cần phải đa dạng hóa hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy học. Và thực hiện hoạt động ngoại khóa chính là chính là cách thức để đa dạng hóa điều đó. Đồng thời giúp các em học sinh phát triển phẩm chất năng lực và yêu thích hơn bộ môn lịch sử”.
Buổi trải nghiệm của thầy và trò của trường Trung học phổ thông Chuyên Thái Bình tại tượng đài Bác Hồ với nông dân Việt Nam
Dù là những cách trải nghiệm như thế nào thì sau mỗi hoạt động, điều các em nhận được chính là niềm vui, sự hứng thú với kiến thức và cả những kỹ năng sống mới. Sẽ còn nhiều bài học, truyền thống lịch sử nữa mà các em muốn tìm hiểu và việc đa dạng các hình thức tổ chức sẽ giúp các em học sinh thể hiện sự sáng tạo và phát triển năng lực của mình nhiều hơn.
Thế Công
Lịch Mở Cửa Lăng Bác Hồ Mới Nhất 2022
Một số thông tin sơ lược về lăng Hồ Chí Minh
Nếu các bạn đang có dự định viếng thăm lăng chủ tịch HCM, những chưa biết rõ về thông tin như: cách di chuyển, giờ và ngày mở cửa lăng Bác, trang phục, hành vi ứng sử……Vậy bài viết này sẽ hướng dẫn bạn và giúp bạn có được một lịch trình tốt nhất.
Lăng Bác có địa chỉ tại số 19 đường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội.
Thông tin liên hệ với ban quản lý lăng Bác:
* Ban Tổ chức lễ viếng: số 17 đường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội. Số điện thoại liên hệ: 04 38455128
* Ban Đón tiếp: số 1 đường Ông Ích Khiêm, quận Ba Đình, TP Hà Nội.
Điện thoại liên hệ: 04 38455168 – 04 37345484
Lịch mở cửa lăng Bác
Các ngày mở cửa viếng lăng
Các ngày mờ cửa viếng lăng: Thứ Ba, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Bảy, Chủ Nhật.
Mùa hè (áp dụng từ ngày 01/04 đến ngày 31/10):
Thời gian mở cửa các ngày Thứ Ba, Thứ Năm 7h30 đến 10h30. Thứ Bảy, Chủ Nhật và ngày lễ từ 7h30 đến 11h00.
Mùa đông (áp dụng từ ngày 01/11 đến ngày 31/ 3 hàng năm):
Thời gian mở cửa các ngày Thứ Ba, Thứ Năm từ 8h00 đến 11h00. Thứ Bảy, Chủ Nhật và ngày lễ từ 8h00 đến 11h30.
Lưu ý: Ngày 19/5, 2/9 và mồng 1 Tết cổ truyền nếu trùng vào các ngày đóng cửa, thì vẫn mở cửa và tổ chức lễ viếng.
Từ cổng đi vào trong Bảo tàng Hồ Chí Minh, bạn hày đi vào lăng viếng Bác. Tại đây có dãy hành lang dài, bạn sẽ đi theo dãy hành lang đó đến phố Ông Ích Khiêm rồi lại rẽ ra đường Chùa Một Cột. Lúc này, Quảng trường Ba Đình lịch sử cùng lăng Bác uy nghi đã hiện ra trước mắt, bạn cứ theo dòng người xếp hàng vào viếng lăng.
Xếp hàng vào viếng lăng bác
Khi vào trong lăng, bạn cần chú ý biển chỉ dẫn rồi đi theo hướng biển chỉ dẫn. Chỉ có một hướng đi duy nhất nên khi ra ngoài, bạn sẽ ra ở một cửa khác. Cửa này sẽ dẫn bạn đến với phủ Chủ tịch và ao cá Bác Hồ. Lúc này bạn có thể tự do đi lại, khám phá cảnh đẹp thiên nhiên trong khu vườn Bác nhưng chú ý những khu vực không được phép vào, sẽ có biển chỉ dẫn chi tiết.
Lối ra lăng bác và vào thăm nhà sàn, ao cá Toàn cảnh nhà sàn, ao cá nơi bác từng sống và làm việc
Từ khu nhà sàn, bạn theo sự hướng dẫn của ban quản lý lăng để tiếp tục tham quan bảo tàng Hồ Chí Minh, đây là một trong những bảo tàng lớn nhất của Việt Nam. Nơi đây tập trung chủ yếu vào việc trưng bày những hiện vật, tư liệu về cuộc đời và con người chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những lưu ý khi viếng lăng Bác
Về trang phục: Trang phục phải lịch sự và nghiêm túc, không mặc quần áo quá ngắn hay mang tính chất phản cảm khi vào tham quan lăng Bác. Bảo vệ có thể không cho phép bạn vào trong lăng nếu bạn vi phạm điều này.
Về hành vi, thái độ: Văn minh, lịch sự, không gây ồn ào, mất trật tự, đi nhẹ, nói khẽ, và xếp hàng theo thứ tự.
Muốn không phải xếp hàng viếng lăng, bạn nên đến Bộ Tư lệnh lăng xin giấy phép đặc cách trước ngày đi 2 – 3 ngày.
Những thông tin hữu ích cho chuyến thăm Lăng Bác
Không cho trẻ em dưới 3 tuổi vào trong lăng.
Thực hiện việc gửi hành lý theo quy định và sắp xếp của ban quản lý lăng. Không gửi đồ ăn uống, đồ điện tử, đồ trang sức hay đồ kim loại; bạn có thể sẽ không được phép gửi đồ.
Không chụp hình, ghi hình ở các khu vực cấm, đặc biệt là khu vực bên trong lăng.
Dịch Covid-19 Lăng Bác có mở cửa không ?
Theo thông trên VTV cung cấp thì đến ngày 12/5/2020 Lăng Bác sẽ được mở cửa trở lại để phục vụ người dân đến thăm.
Lưu ý: khi đến viếng lăng Bác chúng ta phải luôn luôn tuân thủ các biện pháp phòng chóng dịch COVID -19 mà ban quản lý đưa ra. Trước khi đến thăm lăng, chúng ta nên chuẩn bị khẩu trang nếu ban quản lý lăng yêu cầu đeo thì sãn có.
Lịch bảo trì Lăng Bác 2020
Trước đây, Lăng Chủ Bác được tu bổ từ ngày 4/9 đến 4/12 hằng năm, nhưng theo đề nghị của bản quan lý đến năm 2018 Thủ tướng đã ký và đồng ý về việc đổi mới lịch bảo trì định kỳ cho Lăng Chủ tịch HCM cụ thể như sau: thời gian bảo trì bắt đầu từ ngày 15/6 – 15/8 hằng năm, vì vậy thời gian này sẽ không đón khách vào viếng lăng.
Thời gian này, các điểm tham quan trong khu di tích Phủ Chủ tịch như nhà sàn, ao cá, đường Xoài hay bảo tàng Hồ Chí Minh vẫn mở cửa đón khách. Quý khách lưu ý lịch mở cửa Lăng Bác để có chuyến đi tốt đẹp.
Kiến trúc và vài nét về Lăng hủ tịch HCM.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay còn gọi là Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác, là nơi đặt thi hài Hồ Chí Minh. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi ông đã từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn.
Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975, gồm 3 lớp với chiều cao 21,6 mét, chiều rộng 41,2 mét lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, những cầu thang.
Bên ngoài lăng được ốp bằng đá granite xám, bên trong làm bằng đá xám và đỏ đã được đánh bóng. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. Ở mặt chính có dòng chữ: ” CHỦ TỊCH HỒ-CHÍ-MINH” bằng đá hồng màu mận chín. Xung quanh lăng là các khu vườn nơi hơn 250 loài thực vật được trồng từ khắp mọi miền của Việt Nam.
Trong di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước. Tuy nhiên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III, với lý do tuân theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân, quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chí Minh để sau này người dân cả nước, nhất là người dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng.
Ướp thi hài Bác
Tuy nhiên, Lê Duẩn đã từng đề nghị Hồ Chí Minh nên cho bảo quản thi hài lâu dài để đồng bào miền Nam và cả nước được đến thăm, nghe vậy Hồ Chí Minh không nói gì. Ngay vào thời điểm ông mất, Bộ Chính trị vẫn chưa có quyết định cuối cùng về việc này.
Theo báo chí trong nước, trong lễ truy điệu, đến dự có đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô do chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô dẫn đầu đến viếng. Hơn 1 giờ sáng, sau cuộc họp Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Lê Duẩn đến nhà khách của Chính phủ và nói với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô
Các đồng chí biết Bác Hồ của chúng tôi đối với dân tộc Việt Nam là thiêng liêng như thế nào. Nhất là đối với đồng bào miền Nam, họ hy sinh chiến đấu để được độc lập, thống nhất và cũng là để được gặp Bác cho toại nguyện. Bác cũng rất muốn vào Nam gặp đồng bào Miền Nam, nhưng sức khỏe của Bác không cho phép. Vì vậy chúng tôi phải giữ thi thể của Bác để đồng bào Miền Nam chúng tôi được thấy dung nhan của Bác sau ngày chiến thắng.
Lê Duẩn đã đề nghị cho chuyên gia Liên Xô sang gấp để bảo quản thi hài. Chủ tịch đoàn Liên Xô cứng rắn nói rằng phải đưa thi hài sang Liên Xô. Lúc đó, Lê Duẩn đã khóc và bác bỏ: “Không thể được, theo phong tục Việt Nam, Người phải ở lại với đồng bào chúng tôi!”. Ông nói:
Nếu Liên Xô nói phải đưa thi thể Bác sang Liên Xô mới giữ được thì chúng tôi đành phải chôn Bác, bởi vì nếu chúng tôi đưa Bác sang thì nhân dân chúng tôi sẽ nói Bộ Chính trị đã phản bội, đưa Bác đi đâu rồi! Và khi quyết định chôn Bác, chúng tôi sẽ nói với đồng bào chúng tôi: Chỉ có Liên Xô mới có kỹ thuật giữ thi thể của Bác, nhưng vì Liên Xô không chịu làm, nên Bộ Chính trị đau lòng gạt nước mắt để chôn Bác.
Chủ tịch đoàn lập tức điện về Liên Xô, xin ý kiến và đã đồng ý cử ngay chuyên gia sang Việt Nam giúp bảo quản thi hài.
Theo tiết lộ gần 50 năm sau của Giáo sư Viện sĩ Iuri Lopukhin, thì đoàn chuyên gia Liên Xô đã qua trước đó mấy ngày. Ngày 28 tháng 8 năm 1969, khi bệnh tình của chủ tịch Hồ Chí Minh trở nên rất nặng, Giáo sư Viện sĩ Iuri Lopukhin, cựu Hiệu trưởng Trường Đại học Y khoa Moscow số 2 và 4 chuyên gia Liên Xô khác từ Viện Lăng Lenin đã được mời sang Hà Nội. Việc ướp thi hài của Hồ Chí Minh được thực hiện vào bảy ngày sau đó tại Viện Quân y 108 ở Hà Nội, khi ông qua đời. Tính từ năm 1969 đến 2014, đã có 82 chuyên gia y tế Liên Xô qua giúp Việt Nam trong việc này.
Sau Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Ban phụ trách quy hoạch A”, trong đó có các ông Nguyễn Lương Bằng, Trần Quốc Hoàn, Phùng Thế Tài, bắt đầu nghiên cứu quy hoạch xây dựng Lăng Hồ Chủ tịch. Tháng 1 năm 1970, Chính phủ Liên Xô cử một đoàn cán bộ sang Việt Nam bàn về thiết kế và thông báo sẽ giúp đỡ kỹ thuật trong thiết kế, xây dựng và trang bị cho Lăng. Các chuyên gia Liên Xô chuẩn bị 5 phương án về bố trí cụm tổng thể của Lăng. Sau thời gian ngắn, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua “Dự thảo nhiệm vụ thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh” do các chuyên gia Liên Xô và Việt Nam đưa ra.
Tin tức về việc xây dựng Lăng Hồ Chí Minh được lan truyền trong nhân dân, nhiều người Việt Nam ở cả hai miền Nam, Bắc và Việt kiều ở nước ngoài gửi thư về đóng góp ý kiến. Theo nguyện vọng của nhân dân, Bộ Chính trị quyết định lùi việc duyệt bản thiết kế sơ bộ đã được thông qua. Một đợt sáng tác mẫu thiết kế Lăng được tổ chức, các mẫu được trưng bày và lấy ý kiến của nhân dân. Trong khoảng thời gian từ tháng 5/1970 tới 8/1970, có 200 phương án thiết kế được gửi đến, trong đó có 24 phương án được chọn lựa và đem trưng bày tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Sơn La và Nghệ An. 745.487 lượt người đã tới thăm và 34.022 người tham gia ý kiến.
Kết thúc đợt triển lãm và lấy ý kiến, bản “thiết kế sơ bộ” tổng hợp các ý kiến của nhân dân được mang sang Liên Xô. Sau 3 tuần làm việc, phương án thiết kế sơ bộ của Việt Nam được Liên Xô chấp nhận.
Lăng được thiết kế để có độ bền vững cao, chống được bom đạn và động đất cường độ 7 richter. Ngoài ra còn có công trình bảo vệ đặc biệt chống lụt phòng khi Hà Nội bị vỡ đê. Kính quan tài phải chịu được xung lực cơ học lớn. Lăng còn được thiết kế thêm “buồng đặc biệt” để có thể giữ thi hài tại chỗ trong trường hợp có chiến tranh.
Việc thiết kế hết 2 năm.
Lăng được xây dựng trên nền cũ của tòa lễ đài giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh chủ trì các cuộc mít tinh lớn và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Lăng được chính thức khởi công xây dựng vào ngày 2 tháng 9 năm 1973.
Vật liệu xây dựng được mang về từ nhiều miền trên cả nước. Cát được lấy từ các con suối thuộc Xã Kim Tiến,Huyện Kim Bôi,Tỉnh Hòa Bình do người dân tộc Mường đem về; đá cuội được chuyển từ các con suối vùng Sơn Dương, Chiêm Hoá, Ngòi Thìa, Tuyên Quang…; đá chọn xây lăng từ khắp các nơi: đá Nhồi ở Thanh Hoá, đá Hoa ( Chùa Thầy), đá đỏ núi Non Nước…; đá dăm được đưa từ mỏ đá Hoàng Thi (Thác Bà, Yên Bái), còn cát lấy từ Thanh Xuyên ( Thái Nguyên). Nhân dân dọc dãy Trường Sơn còn gửi ra 16 loại gỗ quý. Các loài cây từ khắp các miền được mang về đây như: cây chò nâu ở Đền Hùng, hoa ban ở Điện Biên- Lai Châu, tre từ Cao Bằng… Thanh thiếu niên còn tổ chức buổi tham gia lao động trong việc mài đá, nhổ cỏ, trồng cây. Hệ thống điện phục vụ chiếu sáng, thiết kế xây lăng và bảo quản thi hài Hồ Chí Minh do các chuyên gia Liên Xô đảm nhiệm. Liên Xô cũng gửi hai vạn tấm đá hoa cương và cẩm thạch mài nhẵn để trang trí cho Lăng.
Về thi hài của Hồ Chí Minh, thì theo tiết lộ của Lý Chí Thỏa, bác sĩ riêng của Mao Trạch Đông thì khi Mao Trạch Đông mất năm 1976, vì lúc đó quan hệ Trung Quốc với Liên Xô đang xấu nên thay vì qua Liên Xô tham khảo cách giữ thi hài, họ gửi hai người đến Hà Nội để học hỏi cách bảo quản thi hài, theo cách bảo quản thi hài Hồ Chí Minh tại Lăng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, chuyến đi không kết quả vì Việt Nam từ chối chia sẻ kinh nghiệm và còn không cho các nhà khoa học Trung Quốc xem thi hài Hồ Chí Minh.
Trích nguồn từ: https://vi.wikipedia.org/
Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia Tổ Chức “Giờ Học Lịch Sử” Với Chủ Đề ” “Văn Lang
Trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc, nhà nước Văn Lang – Âu Lạc là nhà nước đầu tiên để lại dấu ấn rất sâu đậm trong ký ức của nhân dân Việt Nam với bao huyền thoại và truyền thuyết lưu truyền rộng rãi trong dân gian từ đời này sang đời khác. Truyền thuyết Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở ra trăm con, được coi như tổ tiên chung của cộng đồng dân tộc. Những câu truyện cổ tích Trầu cau, Bánh chưng, Bánh dày, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng… phản ánh đời sống sinh hoạt xã hội, phong tục tập quán người Việt cũng như công cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước từ buổi đầu dựng nước của người Việt cổ…
Nước Văn Lang và Âu Lạc ra đời trên một nền tảng kinh tế khá phát triển, chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước, chăn nuôi và các ngành nghề thủ công như: đúc đồng, làm đồ gốm, đan lát… đặc biệt thời kỳ này người Việt cổ đã phát triển kỹ thuật luyện kim nên công cụ bằng đồng thau dần thay thế công cụ bằng đá và đã được minh chứng tại nền văn hóa Đông Sơn.
Trước khi tham gia các hoạt động chơi các em học sinh được tham quan hệ thống trưng bày với nội dung trọng tâm là tìm hiểu về nhà nước đầu tiên trong lịch sử, qua đó giúp các em nắm được những kiến thức cơ bản về lịch sử. Sau đó, các em tiếp tục được tham gia 3 hoạt động chơi mang tên: Tìm hiểu về nhà nước đầu tiên trong lịch sử, Theo dòng lịch sử, Hành trình tìm di sản.
Các em tham gia hoạt động “Văn Lang – Âu Lạc, nhà nước đầu tiên trong lịch sử”.
Hoạt động chơi “Tìm hiểu về nhà nước đầu tiên trong lịch sử”, với những câu hỏi thú vị, bổ ích đã giúp cho các em tìm hiểu, ôn lại kiến thức về sự hình thành và phát triển của dân tộc trong buổi đầu dựng nước và giữ nước. Hình thức chơi là theo đội, hai đội sẽ phải dùng những quả bóng này để ném thật khéo vào hai vòng tròn ở phía trên, nếu bóng chạm vào vạch tròn hoặc ra ngoài thì các em phải nhanh chóng chạy lên thật nhanh để mang bóng về cho các bạn khác tiếp tục chơi. Sau khi ném hết số bóng hai đội sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi theo thứ tự từ 1 đến 8 được in trên bóng. Đội có quyền trả lời đưa ra đáp án sai thì quyền trả lời sẽ thuộc về đội bạn, nếu đội bạn không trả lời được quyền trả lời sẽ thuộc về khán giả. Đội nào trả lời được nhiều câu hỏi đúng sẽ là đội thắng cuộc. Thông qua hoạt động chơi này nhằm cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản để các em hiểu được về thời kỳ đầu dựng nước trong lịch sử dân tộc.
Kết thúc hoạt động một, các em tiếp tục tham gia hoạt động hai mang tên Theo dòng lịch sử. Hai đội chơi đã được tham gia trò chơi thể chất, lần lượt vượt qua chướng ngại vật để lên lấy bóng, trên mỗi quả bóng là một câu hỏi, đội nào lấy được nhiều bóng và trả lời được nhiều câu hỏi (mỗi câu hỏi trả lời đúng sẽ được 10 điểm) sẽ là đội thắng cuộc. Hoạt động này đòi hỏi các em phải có sự phối hợp nhịp nhàng và hết sức khéo léo để lấy về cho đội mình thật nhiều bóng sau đó cùng nhau hội ý để trả lời tốt các câu hỏi của chương trình.
Các em tham gia hoạt động “Theo dòng lịch sử”.
Trong hoạt động 3 mang tên: “Hành trình tìm di sản”, không khí của buổi sinh hoạt hết sức náo nhiệt, các bạn tham gia chơi rất hào hứng, còn các bạn cổ động viên đã dồn vào giữa hội trường vỗ tay, hô hào, cổ vũ cho đội mình. Hoạt động này các bạn chơi sẽ phải vượt qua chướng ngại vật (là những vòng kim tuyến có gắn chuông) để ghép các mảnh ghép với nhau sao cho thành bức tranh hoàn chỉnh. Nếu chạm vào chướng ngại vật thì người chơi sẽ phải nhanh chóng quay trở lại để nhường quyền chơi cho bạn khác. Đội nào ghép nhanh và đúng sẽ là đội thắng cuộc. Lúc này các bạn chơi rất nhanh chóng, khéo léo và thông minh, chỉ trong vòng 7 phút các em đã ghép xong bức ảnh thành Cổ Loa. Khi được hỏi về ý nghĩa của bức ảnh này một em đến từ lớp 8A nói: ” Đây là bức ảnh mô tả lại về mặt bằng di tích thành Cổ Loa một trong những công trình quân sự lớn nhất nước ta và là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, và trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như cách xây dựng thành lũy của người Việt cổ trong quá trình đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc.
Chương trình được khép lại sau 90 phút “chơi mà học, học mà chơi”, đến lúc phải chia tay, các thầy cô giáo, các em học sinh và các bậc phụ huynh đều hài lòng, vui vẻ và bày tỏ lời cảm ơn đến bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã tạo điều kiện cho các em học sinh tham dự một buổi học môn lịch sử đầy bổ ích và giàu ý nghĩa này.
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Thuyết Minh Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam Dành Cho Hướng Dẫn Viên Du Lịch
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam vừa là một cơ sở khoa học vừa là một trung tâm văn hóa, có tính khoa học cao và tính xã hội rộng lớn. Bảo tàng có các chức năng như sau: Nghiên cứu khoa học, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, phục chế, trưng bày, trình diễn, để giới thiệu và giáo dục về những giá trị lịch sử – văn hóa của các dân tộc trong và ngoài nước; cung cấp tư liệu nghiên cứu về các dân tộc; đào tạo cán bộ nghiên cứu, nghiệp vụ, quản lý về nhân học bảo tàng và bảo tàng dân tộc học.
Quá trình hình thành
Loại hình bảo tàng dân tộc học rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn về nhiều phương diện trên qui mô quốc gia cũng như ở từng địa phương, bởi vì Việt Nam có tới 54 dân tộc. Cho nên, ngay từ năm 1981 Nhà nước đã chủ trương hình thành một Bảo tàng Dân tộc học đặt tại thủ đô Hà Nội. Công trình Bảo tàng Dân tộc học được chính thức phê duyệt luận chứng kinh tế – kỹ thuật ngày 14-12-1987 và được Nhà nước cấp đất để xây dựng: năm 1987 – 2.500m2, năm 1988 – 9.500m2, đến năm 1990 Thủ tướng Chính phủ có quyết định giao toàn bộ 3,27 ha.
Bảo tàng bắt đầu được cấp vốn chuẩn bị đầu tư vào năm 1986. Công việc xây dựng móng triển khai từ cuối năm 1989. Theo luận chứng kinh tế – kỹ thuật, tổng kinh phí để xây dựng là 27 tỷ đồng, chưa kể khoảng 4 tỷ đồng cho việc sưu tầm hiện vật, tư liệu và tổ chức trưng bày
Suốt nhiều năm, Ban quản lý công trình Bảo tàng và Phòng Bảo tàng là một bộ phận của Viện Dân tộc học. Ngày 24-10-1995, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định về việc thành lập Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam).
Ngày 12 tháng 11 năm 1997, đúng vào dịp Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 7 các nước có sử dụng tiếng Pháp họp tại Hà Nội, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình và Tổng thống Cộng hòa Pháp Jacques Chirac đã cắt băng khai trương Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tọa lạc bên đường Nguyễn Văn Huyên ở quận Cầu Giấy, cách trung tâm thủ đô Hà Nội chừng 8 km. Đây vốn là vùng đất ruộng của cư dân sở tại. Tất cả các công trình cơ sở hạ tầng đều mới được xây dựng cùng với quá trình hình thành Bảo tàng. Đường Nguyễn Văn Huyên và đường Nguyễn Khánh Toàn chạy qua phía trước Bảo tàng cũng đều mới được xây dựng.
Công trình Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh (người dân tộc Tày, thuộc Công ty Xây dựng nhà ở và công trình công cộng, Bộ Xây dựng) thiết kế. Nội thất công trình do Bà kiến trúc sư Véronique Dollfus (người Pháp) thiết kế.
Trong khoảng một chục năm qua, Bảo tàng có 2 khu vực chính. Một khu bao gồm nhà trưng bày, văn phòng và cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản, hệ thống các bộ phận kỹ thuật, hội trường… Các khối nhà liên hoàn với nhau, có tổng diện tích 2.480m2, trong đó 750 m2 dùng làm kho bảo quản hiện vật. Khu thứ 2 là khu trưng bày ngoài trời, rộng khoảng 2 ha, bắt đầu xây dựng năm 1998 và hoàn thành công trình trưng bày cuối cùng trong năm 2006.
Bên cạnh đó, hiện nay Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được cấp thêm hơn 1 ha đất, nâng diện tích khuôn viên của Bảo tàng lên gần 4,4 ha. Tại phần đất mở rộng này, từ giữa năm 2007 bắt đầu xây dựng một tòa nhà 4 tầng, sẽ mang tên “nhà Cánh diều”, để giới thiệu về văn hóa các dân tộc ngước ngoài, chủ yếu là các dân tộc ở Đông Nam Á. Đây sẽ là khu trưng bày thứ 3 của Bảo tàng.
Mười năm đầu mở cửa, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã đón tiếp khoảng 1.200.000 lượt khách tham quan, trong đó có trên 530.000 khách quốc tế đến từ hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số du khách đến Bảo tàng ngày càng gia tăng, năm 2007 đạt 337.000 lượt người, trong 6 tháng đầu năm 2008 – hơn 210.000 lượt người…
Những điểm mới
Có thể nói, Bảo tàng này là một trung tâm trưng bày và lưu giữ quí giá về văn hoá của đủ 54 dân tộc. Tính đến năm 2000 đã tích luỹ được 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CDRom . Đồng thời, đây là một trung tâm nghiên cứu dân tộc học với những chuyên gia về các dân tộc, các lĩnh vực chuyên ngành. Người ta đến đây không chỉ để tham quan, giải trí, mà còn để tìm hiểu, nghiên cứu về các dân tộc, các sắc thái văn hoá đa dạng và đặc sắc của từng tộc, từng vùng cũng như những giá trị truyền thống chung của các dân tộc. Vì vậy, từ nhân dân khắp các miền trong nước đến khách nước ngoài, từ học sinh, sinh viên đến nhà khoa học đều có thể tìm thấy sự hấp dẫn ở đây.
Hiện vật của BTDTHVN không phải chỉ là những cổ vật đắt tiền, mà chủ yếu bao gồm nhiều thứ rất bình thường trong đời sống hàng ngày của người dân như: con dao, cái gùi, chiếc khố, ống sáo, cái tẩu, tấm chiếu… Chúng phản ánh mọi khía cạnh văn hoá vật thể và phi vật thể của cộng đồng dân cư, thể hiện tiêu biểu mọi mặt cuộc sống và mọi sáng tạo văn hoá của họ. Bởi vậy, trong Bảo tàng này, hiện vật rất phong phú, có thể hình thành được nhiều sưu tập theo các tiêu chí khác nhau. Bảo tàng có 54 bộ sưu tập về từng dân tộc, như: về người Thái, về người Hmông, về người Gia Rai… Phân chia theo công dụng, có các sưu tập về y phục, các đồ trang sức, về nông cụ, về ngư cụ, về vũ khí, về đồ gia dụng, về nhạc cụ… Lại có tập hợp riêng về các hiện vật tôn giáo-tín ngưỡng, cưới xin, ma chay hay nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác. Trên cơ sở đó, Bảo tàng tổ chức trưng bày và xuất bản sách ảnh theo các dạng thức sưu tập khác nhau, bổ ích và lý thú đối với mọi đối tượng, mọi trình độ học vấn.
BTDTHVN được triển khai theo nhiều quan niệm mới phù hợp với sự tiến bộ khoa học và kỹ thuật. Trước hết đó là quan niệm Bảo tàng dành cho tất cả mọi người. Quan niệm này được thể hiện trong cả kiến trúc lẫn trong kỹ thuật trưng bày. Bảo tàng có lối đi riêng thích hợp cho thương binh hay những người khuyết tật phải di chuyển bằng xe đẩy và có thang máy để họ lên xem tầng hai. Các bậc lên xuống đều có tay vịn cho người già yếu tiện đi lại. Trong trưng bày, kế thừa kinh nghiệm của nhiều bảo tàng trên thế giới, BTDTHVN đã không chọn chữ in mà chọn chữ viết thường cho tất cả các bài viết để người xem ở các lứa tuổi có thể đọc dễ dàng và không mỏi mắt. Các tấm pa nô cũng được treo ở tầm cao có tính toán phù hợp với cả lứa tuổi thiếu nhi. Phần trưng bày của Bảo tàng có hiện vật, có ảnh, bài viết, có băng hình, có các tư liệu tham khảo… mà người xem tuỳ trình độ và nhu cầu khác nhau có thể khai thác nhiều hay ít.
Phần trưng bày thường xuyên của Bảo tàng hiện nay chỉ trưng bày một số lượng hiện vật hạn chế: gần 700 hiện vật khối và 280 ảnh. Quan điểm chủ đạo là không tham đưa quá nhiều hiện vật vào trong các tủ trưng bày, bởi sẽ gây cảm giác thừa ứ hoặc khó tiếp cận được một cách tập trung.
Phương pháp bố trí nội dung trong trưng bày của Bảo tàng là kết hợp giữa cộng đồng ngôn ngữ và vùng lãnh thổ. Hầu hết hiện vật trưng bày là hiện vật gốc, được lựa chọn và chủ yếu phô bày trong 97 tủ kính lớn nhỏ khác nhau: có loại tủ 1 mặt, có loại 4 mặt, có tủ chứa nhiều hiện vật, có tủ chỉ đặt 1 hoặc vài ba hiện vật. Trong số đó, hơn 50 tủ có bài viết giới thiệu kèm theo. Mỗi hiện vật đều có phụ đề ghi rõ tên gọi hiện vật, đồng thời cho biết dân tộc và xứ sở sản sinh ra nó. Bảo tàng cũng sử dụng manơcanh, bản đồ, biểu đồ, sách cứng, ảnh, phim video, băng âm thanh, một số mô hình và 33 pa nô trong trưng bày. Mặc dù diện tích không lớn, nhưng trong nhà vẫn có một số điểm nhấn được trưng bày theo hình thức tái tạo về một tập tục hay một nét văn hoá nào đó. Người xem có thể hiểu được nội dung tái tạo không chỉ thông qua hệ thống hiện vật, mà còn có cả phim video nữa.
Bảo tàng cố gắng tìm các giải pháp kỹ thuật hiện đại trong phương pháp thể hiện trưng bày như việc sử lý ánh sáng, dùng đèn chuyên dụng chiếu vào từng hiện vật hay từng bộ phận của hiện vật làm nổi lên vẻ đẹp cần gây sự chú ý quan sát. Trong điều kiện hiện nay, Bảo tàng đã lựa chọn phương án thông khí cho toàn bộ khu trưng bày. Từng tủ kính đều được lắp hệ thống thông khí để đảm bảo cho hiện vật không bị mốc.
Đối với khu ngoài trời, do đất hẹp nên Bảo tàng chỉ có thể dựng 9 công trình kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như: Nhà rông của người Ba Na, nhà sàn dài của người Ê Đê, nhà sàn của người Tày, nhà nửa sàn nửa đất của người Dao, nhà trệt lợp ván pơmu của người Hmông, nhà ngói của người Việt, nhà trệt của người Chăm, nhà trình tường của người Hà Nhì, nhà mồ của người Gia Rai. Xen giữa các công trình kiến trúc dân gian đó là cây xanh các loại, các lối đi ngoằn ngoèo và cả con suối uốn khúc chảy suốt 4 mùa, có cầu bắc nối đôi bờ. Những trưng bày ở phần này đang từng bước được thực hiện.
Với không gian thoáng và cảnh quan đẹp, Bảo tàng bao gồm 2 khu vực chính: khu vực trong nhà và ngoài trời do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh (người dân tộc Tày) thiết kế, nội thất công trình do kiến trúc sư người Pháp đảm nhiệm. Tại đây hiện đang lưu giữ khoảng 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm theo ảnh), hàng trăm băng video, cassette trưng bày nhiều kỷ vật phản ánh mọi mặt đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán của 54 dân tộc anh em, tái tạo thành công những sinh hoạt tôn giáo tiêu biểu cho từng tộc người…
Nơi đây không chỉ là trung tâm lưu giữ và trưng bày quý giá về văn hóa mà còn là nơi tổ chức nghiên cứu khoa học, sưu tầm, phân loại, đánh giá, bảo quản, phục chế, trưng bày, giới thiệu, khai thác các giá trị lịch sử, văn hóa về phương diện dân tộc học của các dân tộc anh em.
Khu vực bên trong bao gồm các khối nhà trưng bày, cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản… Phần trưng bày trong nhà chiếm trọn tòa nhà 2 tầng có dáng mô phỏng hình chiếc trống đồng. Các khối nhà liên hoàn với nhau, mỗi gian trưng bày của từng tộc người thể hiện trong việc trưng bày hiện vật theo lối kể chuyện. Câu chuyện được liên kết chặt chẽ, xuyên suốt với nhau bằng nhóm hiện vật, luôn thay đổi sự hấp dẫn, thỏa mãn nhu cầu khác nhau của người xem. Mỗi gian trưng bày là một câu chuyện lớn phản ánh cuộc sống muôn màu muôn vẻ của đồng bào các dân tộc Việt Nam.
Hiện vật được trưng bày trong bảo tàng rất phong phú, từ y phục, đồ trang sức, vật dụng quen thuộc trong sinh hoạt hàng ngày của các dân tộc như gùi, dao, cuốc, nông cụ… Mỗi hiện vật trong bảo tàng đều có phụ đề ghi rõ tên gọi, nguồn gốc xuất xứ, tư liệu tham khảo. Các sinh hoạt tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng như ma chay, cưới hỏi được thể hiện dưới những thước phim video sinh động và cuốn hút, có tác dụng phổ biến kiến thức rất hiệu quả. Các hiện vật ở đây được trang trí thật đơn giản, không cầu kỳ, để người xem có thể cảm thụ nhiều nhất cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của mỗi hiện vật rất bình dị, đời thường.
Khách được tham quan các hiện vật được trưng bày tại khu trưng bày thường xuyên, khu trưng bày chuyên đề, khu trưng bày lưu động và khu trưng bày ngoài trời. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam còn là điểm dã ngoại ngoài trời thú vị đối với những gia đình có con nhỏ trong những ngày cuối tuần. Khu trưng bày ngoài trời với những mẫu nhà đặc trưng của mỗi dân tộc thực sự là nét sinh động cho việc học tập, nghiên cứu của các em học sinh cũng như những người nghiên cứu, tìm hiểu về phong tục, tập quán của các dân tộc.
Hiện tại, bảo tàng mới dựng được 9 công trình kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như nhà rông của người Ba Na, nhà sàn dài của người Ê Đê, nhà trình tường của người Hà Nhì… Giữa các ngôi nhà là những lối đi nhỏ bên những con suối uốn khúc, những cây cầu nhỏ tạo không gian và phong cảnh rất gần gũi với đời sống của từng tộc người Việt Nam. Đến đây, du khách không chỉ tham quan, giải trí mà còn nghiên cứu, tìm hiểu về các dân tộc, bản sắc văn hóa của từng dân tộc cũng như giá trị truyền thống chung của các dân tộc.
Đặc biệt, chương trình biểu diễn múa rối nước đặc sắc của các phường rối Miền Bắc được diễn ra thường xuyên ở đây. Du khách không những được xem các nghệ sỹ biểu diễn múa rối mà còn được giao lưu với họ, được tự tay điều khiển con rối dưới nước rất thú vị. Các lớp học thủ công, thêu vải cho học sinh thường xuyên được tổ chức vào các dịp hè giúp các em vừa vui chơi giải trí vừa có thể học được nhiều kỹ năng thêu cơ bản.
Bảo tàng mở cửa đón khách tham quan tất cả các ngày trong tuần, trừ thứ hai. Với các hoạt động phong phú và đa dạng, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một địa chỉ lý tưởng cho những du khách muốn nghỉ ngơi, thư giãn, thưởng thức nghệ thuật và khám phá về văn hóa Việt Nam. Bảo tàng rất thích hợp cho ngày nghỉ cuối tuần của các gia đình.
Lịch sử hình thành và quá trình hoạt động
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được thành lập theo quyết định của thủ tướng chính phủ ngày 24 tháng 10 năm 1995. Bảo tàng được xây dựng trong 2 năm và chính thức khánh thành ngày 12 tháng 11 năm 1997.
Bảo tàng được thiết kế bởi kiến trúc sư Hà Đức Lịnh. Phần nội thất do bà kiến trúc sư người Pháp Véronique Dollfus thiết kế. Bảo tàng gồm hai khu vực chính: trong nhà và ngoài trời. Khu vực trong nhà bao gồm các khối nhà: nhà trưng bày, cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản, hệ thống các bộ phận kỹ thuật, hội trường… Các khối nhà này liên hoàn với nhau, có các lối đi hợp lý, với tổng diện tích 2.480m2, trong đó 750 m2 dành cho kho bảo quản hiện vật. Khu trưng bày ngoài trời đang tiếp tục được hoàn thiện.
Đây là một trong những bảo tàng có hệ thống sưu tập hiện vật phong phú, tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Trong những năm qua, bảo tàng đã có nhiều hoạt động sưu tầm hiện vật và phổ biến các giá trị văn hóa vật thể – phi vật thể của các dân tộc Việt Nam thông qua các cuộc trưng bày, không chỉ tại bảo tàng mà còn tham gia các hoạt động trưng bày chuyên đề và trình diễn tại nhiều quốc gia như Mỹ, Canada, Bỉ, Áo…
Đặc điểm của bảo tàng
Hiện nay, phần trưng bày trong nhà chiếm trọn toà nhà 2 tầng có dáng mô phỏng hình trống đồng- một biểu tượng chung của nền văn minh Việt Nam cũng như nhiều nước khác trong khu vực. Chiếc cầu đá granít dẫn vào toà nhà Bảo tàng tạo cảm giác như đang bước lên căn nhà sàn phổ biến ở nhiều vùng. Mặt nền sảnh lớn toà nhà này được trang trí bằng đá granit với biểu trưng theo hình thể của Tổ quốc có đất liền và biển cả.
Hiện vật của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam không phải chỉ là những cổ vật đắt tiền, mà chủ yếu bao gồm nhiều thứ rất bình thường trong đời sống hàng ngày của người dân như: con dao, cái gùi, chiếc khố, ống sáo, cái tẩu, tấm chiếu… Chúng phản ánh mọi khía cạnh văn hoá vật thể và phi vật thể của cộng đồng dân cư, thể hiện tiêu biểu mọi mặt cuộc sống và mọi sáng tạo văn hoá của họ.
Trong bảo tàng này, hiện vật rất phong phú, có thể hình thành được nhiều sưu tập theo các tiêu chí khác nhau. Bảo tàng có 54 bộ sưu tập về từng dân tộc, như: về người Thái, về người Hmông, về người Gia Rai… Phân chia theo công dụng, có các sưu tập về y phục, các đồ trang sức, về nông cụ, về ngư cụ, về vũ khí, về đồ gia dụng, về nhạc cụ… Lại có tập hợp riêng về các hiện vật tôn giáo-tín ngưỡng, cưới xin, ma chay hay nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác.
Nội dung trưng bày trong bảo tàng
Trưng bày trong nhà: Phần lớn diện tích trong nhà được bố trí trưng bày thường xuyên, bên cạnh đó có dành riêng một không gian để tổ chức các trưng bày nhất thời theo chuyên đề. Hiện tại, trưng bày thường xuyên trong nhà được bố trí như sau:
Tầng 1 trưng bày 2 phần chính:
Giới thiệu chung các dân tộc Việt Nam
Giới thiệu các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, bao gồm: Việt (Kinh), Mường, Thổ, Chứt.
Tầng 2 chia thành các phần:
Các dân tộc Chăm, Hoa, Khơme
Ngữ hệ Nam Đảo ở miền núi: giới thiệu các dân tộc Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru
Nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme ở miền núi: giới thiệu 5 dân tộc ở miền Bắc (Khơ Mú, Xinh Mun, Mảng, Kháng, Ơ Đu) và 15 dân tộc ở miền Trung – Tây Nguyên.
Nhóm ngôn ngữ Hán – Tạng: giới thiệu các dân tộc Cống, Sán Dìu, Ngái, Lô Lô, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Si La
Nhóm Hmông – Dao: giới thiệu các dân tộc Hmông, Dao, Pà Thẻn.
Nhóm Tày Thái – Kađai: giới thiệu các dân tộc Tày, Nùng, Sán Chay, Thái, Bố Y
Trưng bày ngoài trời
Đối với khu ngoài trời, do đất hẹp nên Bảo tàng chỉ có thể dựng 9 công trình kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như:
Nhà rông của người Ba Na
Nhà sàn dài của người Ê Đê
Nhà sàn của người Tày
Nhà nửa sàn nửa đất của người Dao
Nhà trệt lợp ván pơmu của người Hmông
Nhà ngói của người Việt
Nhà trệt của người Chăm
Nhà trình tường của người Hà Nhì
Nhà mồ của người Gia Rai.
Xen giữa các công trình kiến trúc dân gian đó là cây xanh các loại, các lối đi ngoằn ngoèo và cả con suối uốn khúc chảy suốt 4 mùa, có cầu bắc nối đôi bờ. Những trưng bày ở phần này đang từng bước được thực hiện.
Những gì thuộc về đời thường thì phải trả lại đời thường
Người Pà Thẻn mặc trang phục đỏ trong mọi hoạt động là hình ảnh giả tạo, được tạo ra bởi những nhà nhiếp ảnh, nhà nghiên cứu của ta muốn nhìn họ với góc nhìn quen thuộc nhưng bất ổn. Những gì thuộc sinh hoạt đời thường thì phải trả về đời thường, qua đó sẽ cho ta cái nhìn và nhận thức mới về người Pà Thẻn thấm đậm hơn.
Thưa ông, lý do gì khiến Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (bảo tàng) chọn trưng bày triển lãm ảnh “Người Pà Thẻn” do chỉ một nhà nhiếp ảnh người Pháp (Sebastien Laval) thực hiện?
Đây là dự án hợp tác của bảo tàng với Hiệp hội các dân tộc Á châu (thành lập đầu năm 2006, là nơi tập hợp, thu hút những nhà nghiên cứu, những nghệ sĩ yêu văn hóa các dân tộc châu Á, đặc biệt là Việt Nam). Dự án “Tiếng nói các dân tộc Việt Nam” của Hiệp hội với mục đích tái hiện khách quan phong tục truyền thống và cuộc sống hiện tại của các dân tộc thông qua ngôn ngữ hình ảnh với những hình ảnh chuyên nghiệp, chất lượng cao, đặc biệt giúp công chúng hiểu về các dân tộc ấy qua “tiếng nói” của chính họ.
Hiệp hội chọn Pà Thẻn vì dân số ước tính chỉ 4300 người, cuộc sống lại có nhiều thay đổi đáng kể, từ du canh du cư thành định cư. Nguyện vọng của họ phù hợp với tiêu chí hoạt động của bảo tàng, Sebastien Laval là người gắn bó và hiểu các dân tộc thiểu số Việt Nam, nên tôi đã đưa triển lãm ảnh về đây.
Trong ý niệm của công chúng lâu nay, người Pà Thẻn là hình ảnh những người phụ nữ trong trang phục dân tộc đỏ (mặc váy đỏ, khăn đội đầu màu đỏ), hay hình ảnh phụ nữ thổi sáo…nhưng qua triển lãm này thì sao?
Người Pà Thẻn mặc trang phục đỏ trong mọi hoạt động là hình ảnh giả tạo, được tạo ra bởi những nhà nhiếp ảnh, nhà nghiên cứu của ta muốn nhìn họ với góc nhìn quen thuộc nhưng bất ổn. Người Pà Thẻn cứ thấy khách đến, chuẩn bị chụp ảnh là họ thay quần áo. Khi Sebastien Laval đưa đến đây 100 bức ảnh, tôi đã đề nghị anh bỏ đi những bức chụp như những người khác. Vẫn có vài tấm họ mặc trang phục đỏ để chụp ảnh, còn những gì thuộc sinh hoạt đời thường thì phải trả về đời thường ấy, họ đi nương, đi gùi, ở nhà nấu bếp, chăm lợn gà… thế nào, bình thường họ ăn mặc ra sao? Qua đó sẽ cho ta cái nhìn và nhận thức mới về người Pà Thẻn thấm đậm hơn, sẽ hiểu cuộc sống của họ hơn.
Có đáng tiếc không khi trong cái nhìn chân thực ấy, công chúng sẽ thấy cả những góc đã bị “hiện đại hóa” của người Pà Thẻn?
Họ vẫn có nhu cầu giữ bản sắc riêng, nhưng thực tế cuộc sống của họ phải thay đổi. Cũng như chúng ta, trang phục truyền thống chỉ còn mặc trong những dịp lễ hội, còn lại thì chúng ta đã Âu hóa, người Pà Thẻn cũng như vậy. Đó là câu chuyện toàn cầu hóa, người Pà Thẻn ở nơi xa xôi hẻo lánh như thế cũng phải hội nhập. Cuộc sống của họ chịu nhiều thách thức, ngoài thách thức vượt sự nghèo khổ thì còn thách thức phải học theo cái gì, giữ lại cái gì là bản sắc?
Cách đây không lâu, một ngẫu nhiên thú vị xảy ra với tôi. Một cô gái trẻ 22 tuổi, người Pà Thẻn là Phù Thị Thiên (công tác tại trung tâm văn hóa huyện Quang Bình, Hà Giang) tâm huyết với văn hóa dân tộc mình, gửi thư cho giám đốc bảo tàng, bày tỏ băn khoăn rằng cô đến đây thấy bảo tàng trưng bày về người Pà Thẻn quá ít, không đầy đủ. Tôi đã ngỡ ngàng vì nhu cầu mạnh mẽ và “đúng lúc” như vậy.
Tôi đã đề nghị Hiệp hội các dân tộc Á châu mời Thiên cùng những người bạn của cô đến đây dự khai mạc, để những người Kinh chúng ta có dịp tiếp xúc trực tiếp và hiểu hơn về những suy nghĩ của họ. Vậy mà có người còn không tin họ là người “Pà Thẻn xịn”, cũng do trong nhiều sự kiện ta đã đánh tráo bằng người Kinh mặc áo dân tộc. (Cũng nói thêm là nhiều khách đến thăm đề nghị bảo tàng của tôi để những người thuyết minh mặc trang phục dân tộc sẽ ấn tượng hơn, nhưng đó không phải là sứ mệnh của bảo tàng. Tôi nghĩ điều quan trọng nhất là sự trung thực, “quần áo của ai thì người ấy mặc”).
Liệu những triển lãm ảnh như thế này có góp phần, dù nhỏ bé, giúp các dân tộc như Pà Thẻn nâng cấp cuộc sống, và bảo tồn được bản sắc riêng của họ không, thưa ông?
Chính sự có mặt ở đây sẽ giúp những cô gái Pà Thẻn có những nhận thức mới mẻ. Họ sẽ hiểu những giá trị di sản mà họ đang nắm giữ được xã hội tôn trọng ra sao? Tự họ sẽ thấy tự hào, thấy trách nhiệm, và sẽ quyết định họ muốn bảo tồn di sản của họ như thế nào? Đóng góp của bảo tàng chúng tôi là giúp họ về nhận thức, để những người trẻ như họ sẽ có suy nghĩ về chiến lược lâu dài.
Bên cạnh đó, cũng có sự giúp đỡ kinh tế trực tiếp ngay. Tôi đã là cầu nối để Phù Thị Thiên gặp gỡ ông Trần Đoàn Lâm, giám đốc NXB Thế giới, đồng thời là Chủ tịch quỹ phát triển cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam – Đan Mạch. Chính Thiên sẽ làm dự án đề xuất để quỹ trợ giúp việc bảo tồn và phát triển một mảng văn hóa dân gian, hay một nghề cổ truyền của dân tộc cô. Tôi tin với sự mạnh mẽ, năng động, Thiên và những người như cô sẽ làm được.
Với những hoạt động này, chúng tôi cố gắng tạo ra hướng bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn các nghề thủ công gắn với việc phát triển kinh tế. Từ góc nhìn của những người làm bảo tàng, quan niệm và kinh nghiệm của tôi là hãy làm những việc nhỏ nhưng thiết thực, mang lại ích lợi cho chính cộng đồng những dân tộc thiểu số đang nắm giữ văn hóa. Như thế sẽ có hiệu quả, có tác động sâu sắc, rồi từ đó sẽ lan ra, sẽ nhân rộng .
Cách đây mấy năm, Bảo tàng đã thực hiện dự án trao máy ảnh cho những người thợ dệt dân tộc Lào (huyện Điện Biên Đông, nay thuộc tỉnh Điện Biên). Người của Bảo tàng lên trao đổi với họ, hỏi họ về ý nghĩa của từng bức ảnh mà họ chọn chụp. Từ những trao đổi giao lưu thì tự họ nhận thức ra giá trị của nghề dệt, ý nghĩa và những câu chuyện truyền thuyết xung quanh các hoa văn, giá trị của việc dùng các màu nhuộm tự nhiên…
Bảo tàng đã đứng ra tổ chức hai cuộc triển lãm ảnh của họ chụp, một ở Bảo tàng, một ở ngay trong bản của họ. Sau đó một tháng, gần chục đoàn khách du lịch đến thăm làng (trong khi trước đó chưa có lấy một người nước ngoài bước chân đến đó), rồi làng trở thành điểm đến cho các tour du lịch. Vậy là người dân có những nhận thức mới, họ phục hồi sản xuất và tạo ra những sản phẩm mới để bán, làng bản họ giữ vệ sinh hơn, cuộc sống của họ cũng có những thay đổi thích hợp để đón khách tốt hơn nữa. Chính những điều này đã thay đổi cuộc sống của họ.
Năm ngoái, lần đầu tiên những người thợ dệt – vốn luôn sống khép mình trong bản làng – biết tự mình mang sản phẩm xuống Hà Nội để tham gia hội chợ triển lãm Craft Link, bán ngay ở sân Bảo tàng. Tôi cũng đã bàn với Craft Link, xin UNESCO ở Paris kinh phí để mở những lớp học giúp cho nhóm đổi mới mẫu mã, thích ứng với cuộc sống mới mà vẫn giữ những giá trị, những hoa văn truyền thống.
Cách làm đó của Bảo tàng đã được nhân rộng ra ở nhiều dự án khác, như dự án với làng gò đồng Đại Bái, hay dự án trao máy ảnh cho những người dân phố cổ Hà Nội.
Vậy sau triển lãm “Người Pà Thẻn”, ông có nghĩ cuộc sống của họ sẽ thay đổi thế nào không?
Tôi cũng sẽ bàn với chị Nguyễn Nga, Chủ tịch Hiệp hội các dân tộc Á Châu để đưa triển lãm này lên trưng bày ở Hà Giang, ở ngay làng Pà Thẻn. Tôi cũng được biết, Hiệp hội đã có dự án xây dựng một nhà trưng bày ở giữa làng của họ. Đây không chỉ là nơi treo những bức ảnh, mà còn là nơi để họ gặp nhau cho những sinh hoạt tập thể, nơi khách du lịch có thể dừng chân và ngủ qua đêm, gặp gỡ giao lưu với người bản xứ. Hội sẽ tìm kinh phí hỗ trợ để chính họ dựng lên ngôi nhà như họ mong muốn. Tôi nghĩ ý tưởng này nằm trong tầm tay, bởi rất phù hợp với mục tiêu của quỹ Việt Nam – Đan Mạch.
Chính những triển lãm như thế này là sự khởi đầu cho nhiều thay đổi về tư duy, nhận thức, sẽ mở ra một chân trời mới cho chính cộng đồng.
Cách chuẩn bị tour – tạo ấn tượng với khách du lịch: https://goo.gl/vNZdqE Ý nghĩa hình tượng các con vật trong đền, miếu, mạo : https://goo.gl/hVAzor Những cái nhất của vua chúa Việt Nam : https://goo.gl/3PGEga Nét văn hóa các dân tộc Việt Nam: https://goo.gl/qunyjv Sơ lược về đạo mẫu Việt Nam: https://goo.gl/WzzvQF Các trò chơi hoạt náo trên xe: https://goo.gl/Kq7CDi Thuyết minh 6 tỉnh miền Tây: https://goo.gl/CZpqgE
Bạn đang đọc nội dung bài viết Trải Nghiệm Lịch Sử Bác Hồ Với Nông Dân Việt Nam trên website Asus-contest.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!