Cập nhật nội dung chi tiết về Hướng Dẫn Về Học Phí Dành Cho Khóa 26 Của Trường Đại Học Văn Lang mới nhất trên website Asus-contest.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
– Từ ngày 31/8/2020, Trường Đại học Văn Lang đã gửi cho thí sinh thông tin chi tiết về mức học phí nhập học đối với Khóa 26 của tất cả các ngành và chương trình đào tạo. Đây là căn cứ để các bạn quyết định phương án nhập học cũng như chuẩn bị các hồ sơ cần thiết, chuẩn bị nhập học tại Văn Lang.
MỨC HỌC PHÍ NĂM THỨ NHẤT CỦA KHÓA 26 – CHƯƠNG TRÌNH TIÊU CHUẨN Học phí học kỳ 1 = đơn giá tín chỉ x số tín chỉ mà chương trình đào tạo quy định cho học kỳ 1 của từng ngành. Với Chương trình Đào tạo Đặc biệt, mức đơn giá tín chỉ dao động từ 1,600,000 đồng đến 2,200,000 đồng (tùy ngành). Với Chương trình Tiên tiến liên kết giữa Trường Đại học Văn Lang và Đại học Victoria (Úc) – trường thuộc top 2% đại học hàng đầu thế giới, Nhà trường giữ ổn định mức học phí như khóa nhập học năm 2019. Trong 2 năm cuối, nếu sinh viên đạt yêu cầu chuyển tiếp học và nhận bằng cử nhân tại Đại học Victoria, bạn sẽ đóng học phí theo quy định của Đại học Victoria.
Văn Lang tăng học phí tương ứng với mức độ đầu tư cho Khóa 26
Mức học phí đối với Khóa 26 của Trường Đại học Văn Lang tăng so với mức học phí của các khóa trước. Đây là quyết định của Hội đồng trường Đại học Văn Lang sau nhiều trao đổi và cân nhắc, để hiện thực hóa chủ trương nâng tầm chất lượng đào tạo của Trường theo định hướng quốc tế hóa, nâng cao năng lực và giá trị cho người học.
Trường Đại học Văn Lang vốn có uy tín trong các trường ngoài công lập với các chính sách chăm sóc người học chu đáo, tận tâm; nhiều ngành học nổi bật; đội ngũ giảng viên tâm huyết và cơ sở vật chất ngày càng được đầu tư ấn tượng. Tuy vậy, các nhà lãnh đạo của Trường nhìn nhận còn nhiều yếu tố cần đầu tư cho người học nếu muốn đạt được tầm nhìn ” trở thành trường đại học trẻ được ngưỡng mộ trong khu vực Đông Nam Á” và hiện thực hóa triết lý “Thông qua học tập trải nghiệm, đào tạo con người toàn diện, có khả năng học tập suốt đời, có đạo đức, có sức ảnh hưởng và mang lại thay đổi tích cực cho cộng đồng”.
Đối với Khóa 26, Ban Giám hiệu Trường Đại học Văn Lang chủ trương thực hiện nhiều chương trình mới để phát triển toàn diện các khối kiến thức, kỹ năng, thái độ cho người học; trong đó trọng tâm là các chương trình:
Chương trình nâng cao năng lực tiếng Anh
Chương trình tiêu chuẩn : Trường Đại học Văn Lang đã thiết kế chương trình tiếng Anh riêng, với sự tư vấn của các chuyên gia bên ngoài, đầu tư toàn lực cho mục tiêu cải thiện tiếng Anh của sinh viên. Để thực hiện dự án này, Nhà trường thành lập Viện Ngôn ngữ Văn Lang, đầu tư và cung cấp giáo trình riêng cho sinh viên, phát triển nhóm giảng viên tiếng Anh có kinh nghiệm,… với mục tiêu nâng cao năng lực ngoại ngữ cho sinh viên đạt trình độ tương đương IELTS 6.0 khi tốt nghiệp.
Chương trình Đào tạo đặc biệt :
Trường Đại học Văn Lang thiết kế riêng chương trình tiếng Anh dự bị quốc tế cho sinh viên ngay từ năm thứ nhất, gồm 5 cấp độ tương ứng với IELTS 6.0, nhằm giúp sinh viên đạt trình độ tiếng Anh trước khi học tối thiểu 70% chương trình chuyên ngành bằng tiếng Anh trong các năm học sau. Học phí chương trình tiếng Anh dự bị quốc tế là 40.500.000 đồng (5 cấp độ), đóng riêng trong năm thứ nhất. Trong các năm học sau, các môn học tiếng Anh đã nằm trong chương trình đào tạo và không phát sinh chi phí thêm.
Sinh viên Chương trình Đào tạo đặc biệt nếu đã đạt IELTS 4.5 hoặc trình độ tiếng Anh tương đương thì không cần học chương trình tiếng Anh dự bị quốc tế. Sinh viên được kiểm tra trình độ tiếng Anh đầu vào để xác định cấp độ tương đương so với chương trình tiếng Anh dự bị quốc tế, nếu có chênh lệch so với mức học phí tạm thu, Nhà trường sẽ cấn trừ khoản chênh lệch vào học phí học kỳ sau cho sinh viên.
Chương trình tiên tiến (liên kết với Đại học Victoria – Úc): sinh viên sẽ học hơn 90% khối lượng chương trình bằng tiếng Anh.
Chương trình phát triển thể chất sinh viên
Trường Đại học Văn Lang thành lập Viện Thể dục thể thao Văn Lang, với mục tiêu phát triển các chương trình thể chất đa dạng hơn cho sinh viên. Chương trình Giáo dục thể chất của Trường được lồng ghép các môn võ thuật, bơi lội, điền kinh, bóng đá, bóng rổ, cờ vua, yoga, nhảy hiện đại,… 100% sinh viên đạt yêu cầu về thể chất (theo QĐ 53/2008/QĐ-BGDĐT) và được tham gia các sự kiện thi đấu thể dục thể thao trong và ngoài trường, 100% sinh viên biết tổ chức giải đấu thể thao phong trào,…
Nhiều chương trình huấn luyện thể thao ngoại khóa cho sinh viên cũng được Trường triển khai tùy theo đăng ký của sinh viên, như huấn luyện cho sinh viên thiếu – thừa cân đạt chỉ số BMI bình thường, huấn luyện sơ cấp cứu, huấn luyện yoga trị liệu để cải thiện sức khỏe tinh thần, huấn luyện vận động viên/ trọng tài thể thao,…
Các chương trình “học qua trải nghiệm”
Tùy theo đặc trưng của từng khoa/ chương trình, các chương trình “học qua trải nghiệm” sẽ được cung cấp, lồng ghép trong hoạt động học tập và ngoại khóa của sinh viên, như: chương trình trải nghiệm kỹ năng nghề nghiệp (tối thiểu 5-10 chương trình/ khoa), chương trình phát triển kỹ năng thế kỷ 21, chương trình trải nghiệm làm chuyên gia (teaching & research assistant), chương trình giao lưu văn hóa nghệ thuật (tối thiểu 150 chương trình/ năm cho sinh viên), chương trình vì cộng đồng (tối thiểu 30 chương trình/ năm),…
Tổng hòa các hoạt động của Trường và Khoa tạo nên môi trường để người học phát triển đầy đủ các nhóm kiến thức, kỹ năng và thái độ theo chuẩn mực của sinh viên Văn Lang và chuẩn mực công dân thời đại mới, tiệm cận yêu cầu mới của thị trường lao động. Đây là những mục tiêu lớn mà Văn Lang đang quyết tâm thực hiện để tạo nên một thế hệ sinh viên có thương hiệu trên thị trường lao động.
Trường Đại học Văn Lang công bố mức học phí áp dụng cho sinh viên năm thứ nhất. Những năm sau, Nhà trường tiếp tục đầu tư về cơ sở vật chất, tăng cường các chương trình trải nghiệm nghề nghiệp, nâng cao năng lực ngoại ngữ, đem lại giá trị tăng thêm cho người học. Đơn giá tín chỉ của năm sau có thể được điều chỉnh nhưng tăng không quá 8% so với đơn giá tín chỉ của năm học trước đó.
Học phí của một học kỳ tương ứng với số tín chỉ sinh viên đăng ký trong học kỳ đó ( trừ học kỳ 1: số tín chỉ được Trường quy định) x đơn giá tín chỉ.
Học phí toàn khóa học bao gồm học phí của các học kỳ + chi phí học phần Giáo dục Thể chất (3.500.000 đồng) và học phần Giáo dục Quốc phòng – An ninh (1.500.000 đồng).
Chính sách học bổng và hỗ trợ học phí cho sinh viên
Dù Nhà trường điều chỉnh chính sách học phí để phù hợp hơn với định hướng phát triển hiện tại, nhưng tinh thần chăm lo cho từng sinh viên của Văn Lang không thay đổi. Một khi bạn đầu tư nghiêm túc cho việc học đại học, Nhà trường không để khó khăn về học phí cản trở con đường học tập của sinh viên.
* Quỹ vay vốn học tập của Ngân hàng Chính sách xã hội
Trường Đại học Văn Lang hỗ trợ sinh viên hoàn thành thủ tục xác nhận để vay vốn học tập theo quy định của Ngân hàng Chính sách xã hội, với mức hỗ trợ vay 15 triệu đồng/năm, lãi suất 0.55%/tháng, 6.6%/năm, lãi suất quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay.
Link hướng dẫn chi tiết về vay vốn học tập. * Quỹ vay vốn học tập của Trường Đại học Văn Lang
Dựa trên hợp tác với các ngân hàng đối tác, Trường Đại học Văn Lang triển khai gói hỗ trợ học tập cho sinh viên dự kiến từ 10 – 20 tỷ đồng. Theo đó, từ học kỳ 2 của năm nhất, sinh viên khó khăn có thể nộp đơn vay vốn học tập để Trường xem xét hỗ trợ vay ngân hàng với mức lãi suất từ 0 – 50% so với mức lãi suất thông thường, thời hạn vay trong vòng 3 năm (cho tới khi sinh viên tốt nghiệp).
Ngoài ra, tùy theo đăng ký với Trường, sinh viên có thể chọn gói hỗ trợ tín dụng trả chậm để thanh toán học phí cho Nhà trường, với thời gian trả chậm dự kiến 12 tháng, mà không phải chịu phí thanh toán trả chậm cho ngân hàng.
Chính sách miễn giảm học phí của Văn Lang
Ngoài các trường hợp miễn giảm học phí theo quy định của Nhà nước (SV có cha/mẹ là liệt sĩ, thương binh, bệnh binh), Trường Đại học Văn Lang tiếp tục giữ các chính sách riêng của Trường về miễn giảm học phí cho người học như:
Giảm học phí cho anh/ chị em ruột cùng học tại Trường Đại học Văn Lang từ 8 – 12% học phí/ năm học. Trong đó, Nhà Trường sẽ giảm 8%học phí (nếu anh chị đã tốt nghiệp), giảm 12% học phí (nếu cả hai đang cùng học).
Sinh viên có cha mẹ là cựu sinh viên của Trường: giảm 8% mức học phí/ năm học.
Sinh viên có cha/ mẹ đang làm việc tại Trường: giảm 50% mức học phí/ năm học.
Sinh viên thuộc diện dân tộc thiểu số (có hoàn cảnh khó khăn): 10% mức học phí/ năm học.
Gia đình SV thuộc diện hộ nghèo (theo chuẩn từng địa phương): 15% mức học phí/ năm học.
Sinh viên mồ côi cả cha và mẹ, không nơi nương tựa: 20% mức học phí/ năm học.
Sinh viên bị tàn tật, có khó khăn về kinh tế: 15% mức học phí/ năm học.
Sinh viên là con cán bộ, công nhân, viên chức mà cha hoặc mẹ bị tai nạn lao động hoặc bị mắc bệnh nghề nghiệp hưởng trợ cấp thường xuyên: 8% mức học phí/ năm học.
Học bổng tuyển sinh đối với Khóa 26
10 suất học bổng toàn phần (100% học phí toàn khóa)
20 suất học bổng bán phần (50% học phí toàn khóa)
300 suất học bổng tân sinh viên xuất sắc (100% học phí học kỳ đầu tiên)
Học bổng Chương trình Đào tạo đặc biệt:
Mức 1: 100% học phí năm học đầu tiên (1 suất)
Mức 2: 50% học phí năm học đầu tiên (3 suất)
Mức 3: 10,000,000 đ/ suất (755 sinh viên đầu tiên nhập học các ngành học Chương trình Đào tạo Đặc biệt (số lượng phân bổ theo từng ngành).
Mức 4: 5,000,000 đ/ suất (190 sinh viên tiếp theo nhập học các ngành Chương trình Đào tạo Đặc biệt (số lượng phân bổ theo từng ngành).
Học bổng Chương trình Tiên tiến: tất cả sinh viên trúng tuyển Chương trình Tiên tiến được nhận học bổng 10% học phí toàn khóa học. Ngoài ra 10% sinh viên giỏi nhất của chương trình (xét kết quả học tập hằng năm) được nhận học bổng 15% học phí của Trường.
Học bổng phát triển ngành:
*** 10 sinh viên nhập học đầu tiên các ngànhKỹ thuật – Công nghệ và ngành đặc biệt của Trường Đại học Văn Lang được nhận học bổng 5.000.000 đồng/ suất.
*** 40 sinh viên nhập học tiếp theo vào các ngành Kỹ thuật – Công nghệ và ngành đặc biệt của Trường Đại học Văn Lang nhận học bổng tương đương 20% học phí của học kỳ 1.
Danh sách ngành: Kỹ thuật Nhiệt, Kỹ thuật Xây dựng, Quản lý Xây dựng, Kỹ thuật Xây dựng công trình giao thông, Công nghệ sinh học Y dược; Thiết kế Xanh; Nông nghiệp Công nghệ cao; Công nghệ thực phẩm, Quản trị Công nghệ Sinh học; Quản trị Môi trường doanh nghiệp, Thiết kế Công nghiệp, Công nghệ Kỹ thuật Môi trường, Công nghệ Sinh học, Công nghệ Kỹ thuật điện – điện tử; Kỹ thuật Cơ – Điện tử, Khoa học dữ liệu; Văn học ứng dụng, Công tác xã hội.
Xem thông tin chi tiết về học bổng tuyển sinh Khóa 26
Học bổng trong quá trình học tập
Học bổng VLU: Học bổng được chia thành nhiều mức khác nhau, chỉ cần bạn nỗ lực, biết đặt mục tiêu phấn đấu thì việc đạt học bổng của Trường hoàn toàn khả thi. Yêu cầu tối thiểu để đạt học bổng học tập: điểm trung bình chung học tập học kỳ đạt 7.0 trở lên; điểm rèn luyện học kỳ đạt 70 điểm trở lên.
Mức 1: 100% học phí của học kỳ đạt học bổng. Số lượng: 1 suất học bổng/ khoa (học bổng thủ khoa).
Mức 2: 50% học phí của học kỳ đạt học bổng. Số lượng: 5% số sinh viên đạt học bổng của khoa/ khóa.
Mức 3: 25% học phí của học kỳ đạt học bổng. Số lượng: 10% số sinh viên đạt học bổng của khoa/ khóa.
Mức 4: 15% học phí của học kỳ đạt học bổng. Số lượng: 30% số sinh viên đạt học bổng của khoa/ khóa.
Mức 5: 10% học phí của học kỳ đạt học bổng. Số lượng: 55% số sinh viên đạt học bổng của khoa/ khóa.
* Học bổng cựu sinh viên: tùy theo khoa/ ngành
* Học bổng doanh nghiệp: tùy theo khoa/ ngành
Link thông tin chi tiết về học bổng trong quá trình học tại Văn Lang ***************************Học đại học là một sự đầu tư cho tương lai của người học. Để đạt được chất lượng như mong muốn cho sinh viên theo định hướng mới, Trường Đại học Văn Lang cũng đang nỗ lực đầu tư rất mạnh mẽ cho đội ngũ giảng viên và quản lý, triển khai các chương trình sinh hoạt và học tập cho sinh viên, tiếp tục phát triển cơ sở vật chất. Nếu bạn muốn đầu tư học tập nghiêm túc tại Văn Lang nhưng đang gặp vấn đề về tài chính, hãy liên hệ Trường để tìm giải pháp (thông qua Văn phòng Khoa hoặc Trung tâm Hỗ trợ sinh viên). Các chính sách hỗ trợ vay vốn học tập, gia hạn học phí, trả chậm… sẽ được xem xét theo từng cá nhân cụ thể.
***************************
– Tư vấn trực tiếp: Văn phòng tuyển sinh Cơ sở 1 (45 Nguyễn Khắc Nhu, Phường Cô Giang, Quận 1, chúng tôi hoặc Cơ sở 3 (69/68 Đặng Thùy Trâm, P.13, Q. Bình Thạnh, Tp.HCM). – Điện thoại: 028.7105.9999 Từ ngày 07 – 19/9/2020, Trường Đại học Văn Lang tổ chức nhập học cho sinh viên trúng tuyển các đợt xét tuyển học bạ THPT năm 2020. Với thí sinh xét tuyển theo điểm thi tốt nghiệp THPT, Nhà trường sẽ tổ chức nhập học theo lộ trình quy định của Bộ GD&ĐT, dự kiến hoàn tất trước ngày 10/10/2020.
Thí sinh và phụ huynh cần hỗ trợ, vui lòng liên hệ các kênh thông tin tư vấn tuyển sinh:
– Fanpage: Trường Đại học Văn Lang – Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
– Zalo: Trường Đại học Văn Lang (0904 214 254)
Phòng Tuyển sinh và Truyền thông
Trường Đh Văn Lang Công Bố Mức Học Phí Khóa 24, Nhập Học Năm 2022
Trường ĐH Văn Lang công bố mức học phí khóa 24, nhập học năm 2018
Sự kiện
(Phòng Tuyển sinh – Văn Lang, 16/7/2018 ) – Ngày 14/7/2018, Trường ĐH Văn Lang đã công bố mức học phí khóa 24, nhập học năm 2018. Mức học phí này được Trường ĐH Văn Lang công bố vào đợt điều chỉnh nguyện vọng xét tuyển Đại học theo điểm thi THPT quốc gia, để thí sinh và phụ huynh có đầy đủ thông tin tham khảo trước khi lựa chọn các ngành học.Từ năm 2017, Trường Đại học Văn Lang tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ. Học phí thực đóng mỗi học kỳ có thể sẽ khác nhau tùy theo số tín chỉ của các học phần sinh viên đăng ký học trong học kỳ đó. Nhà trường công bố mức học phí trung bình tính theo một học kỳ để sinh viên và phụ huynh dễ dàng ước tính chi phí đào tạo.
Mức học phí 28 ngành đào tạo bậc đại học của Trường ĐH Văn Lang, khóa nhập học năm 2018: Ghi chú:
Chương trình Văn bằng đôi (Khoa Du lịch): Khi tốt nghiệp, sinh viên được cấp thêm bằng Cử nhân của Đại học Perpignan (Cộng hòa Pháp).
Chương trình Anh văn tăng cường (Khoa Du lịch): lớp chọn những sinh viên giỏi tiếng Anh, được học Anh văn tăng cường; từ năm thứ 3, sinh viên học các môn chuyên ngành bằng tiếng Anh.
Ngành Kỹ thuật Phần mềm: Đào tạo theo chương trình của Đại học Carnegie Mellon, Hoa Kỳ.
Học phí đóng theo từng học kỳ.
Quý phụ huynh, thí sinh cần tư vấn trong mùa tuyển sinh 2018, xin vui lòng liên hệ Phòng Tuyển sinh: P.104B – Trụ sở 45 Nguyễn Khắc Nhu, P. Cô Giang, Q.1, Tp.HCM.– Điện thoại: (028) 3837 4596 – 3837 3741 – Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. – Facebook: Trường Đại học Văn Lang – Chat online tại trang: chúng tôi Phòng Tuyển sinh
Trụ sở: 45 Nguyễn Khắc Nhu, P. Cô Giang, Q.1, TP. HCM
Cơ sở 2: 233A Phan Văn Trị, P.11, Q. Bình Thạnh, TP. HCM
Cơ sở 3: 69/68 Đặng Thùy Trâm, P. 13, Q. Bình Thạnh, TP. HCM
Ký túc xá: 160/63A-B Phan Huy Ích, P. 12, Q. Gò Vấp, TP. HCM
Thuyết Minh Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam Dành Cho Hướng Dẫn Viên Du Lịch
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam vừa là một cơ sở khoa học vừa là một trung tâm văn hóa, có tính khoa học cao và tính xã hội rộng lớn. Bảo tàng có các chức năng như sau: Nghiên cứu khoa học, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, phục chế, trưng bày, trình diễn, để giới thiệu và giáo dục về những giá trị lịch sử – văn hóa của các dân tộc trong và ngoài nước; cung cấp tư liệu nghiên cứu về các dân tộc; đào tạo cán bộ nghiên cứu, nghiệp vụ, quản lý về nhân học bảo tàng và bảo tàng dân tộc học.
Quá trình hình thành
Loại hình bảo tàng dân tộc học rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn về nhiều phương diện trên qui mô quốc gia cũng như ở từng địa phương, bởi vì Việt Nam có tới 54 dân tộc. Cho nên, ngay từ năm 1981 Nhà nước đã chủ trương hình thành một Bảo tàng Dân tộc học đặt tại thủ đô Hà Nội. Công trình Bảo tàng Dân tộc học được chính thức phê duyệt luận chứng kinh tế – kỹ thuật ngày 14-12-1987 và được Nhà nước cấp đất để xây dựng: năm 1987 – 2.500m2, năm 1988 – 9.500m2, đến năm 1990 Thủ tướng Chính phủ có quyết định giao toàn bộ 3,27 ha.
Bảo tàng bắt đầu được cấp vốn chuẩn bị đầu tư vào năm 1986. Công việc xây dựng móng triển khai từ cuối năm 1989. Theo luận chứng kinh tế – kỹ thuật, tổng kinh phí để xây dựng là 27 tỷ đồng, chưa kể khoảng 4 tỷ đồng cho việc sưu tầm hiện vật, tư liệu và tổ chức trưng bày
Suốt nhiều năm, Ban quản lý công trình Bảo tàng và Phòng Bảo tàng là một bộ phận của Viện Dân tộc học. Ngày 24-10-1995, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định về việc thành lập Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam).
Ngày 12 tháng 11 năm 1997, đúng vào dịp Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 7 các nước có sử dụng tiếng Pháp họp tại Hà Nội, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình và Tổng thống Cộng hòa Pháp Jacques Chirac đã cắt băng khai trương Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tọa lạc bên đường Nguyễn Văn Huyên ở quận Cầu Giấy, cách trung tâm thủ đô Hà Nội chừng 8 km. Đây vốn là vùng đất ruộng của cư dân sở tại. Tất cả các công trình cơ sở hạ tầng đều mới được xây dựng cùng với quá trình hình thành Bảo tàng. Đường Nguyễn Văn Huyên và đường Nguyễn Khánh Toàn chạy qua phía trước Bảo tàng cũng đều mới được xây dựng.
Công trình Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh (người dân tộc Tày, thuộc Công ty Xây dựng nhà ở và công trình công cộng, Bộ Xây dựng) thiết kế. Nội thất công trình do Bà kiến trúc sư Véronique Dollfus (người Pháp) thiết kế.
Trong khoảng một chục năm qua, Bảo tàng có 2 khu vực chính. Một khu bao gồm nhà trưng bày, văn phòng và cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản, hệ thống các bộ phận kỹ thuật, hội trường… Các khối nhà liên hoàn với nhau, có tổng diện tích 2.480m2, trong đó 750 m2 dùng làm kho bảo quản hiện vật. Khu thứ 2 là khu trưng bày ngoài trời, rộng khoảng 2 ha, bắt đầu xây dựng năm 1998 và hoàn thành công trình trưng bày cuối cùng trong năm 2006.
Bên cạnh đó, hiện nay Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được cấp thêm hơn 1 ha đất, nâng diện tích khuôn viên của Bảo tàng lên gần 4,4 ha. Tại phần đất mở rộng này, từ giữa năm 2007 bắt đầu xây dựng một tòa nhà 4 tầng, sẽ mang tên “nhà Cánh diều”, để giới thiệu về văn hóa các dân tộc ngước ngoài, chủ yếu là các dân tộc ở Đông Nam Á. Đây sẽ là khu trưng bày thứ 3 của Bảo tàng.
Mười năm đầu mở cửa, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã đón tiếp khoảng 1.200.000 lượt khách tham quan, trong đó có trên 530.000 khách quốc tế đến từ hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số du khách đến Bảo tàng ngày càng gia tăng, năm 2007 đạt 337.000 lượt người, trong 6 tháng đầu năm 2008 – hơn 210.000 lượt người…
Những điểm mới
Có thể nói, Bảo tàng này là một trung tâm trưng bày và lưu giữ quí giá về văn hoá của đủ 54 dân tộc. Tính đến năm 2000 đã tích luỹ được 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CDRom . Đồng thời, đây là một trung tâm nghiên cứu dân tộc học với những chuyên gia về các dân tộc, các lĩnh vực chuyên ngành. Người ta đến đây không chỉ để tham quan, giải trí, mà còn để tìm hiểu, nghiên cứu về các dân tộc, các sắc thái văn hoá đa dạng và đặc sắc của từng tộc, từng vùng cũng như những giá trị truyền thống chung của các dân tộc. Vì vậy, từ nhân dân khắp các miền trong nước đến khách nước ngoài, từ học sinh, sinh viên đến nhà khoa học đều có thể tìm thấy sự hấp dẫn ở đây.
Hiện vật của BTDTHVN không phải chỉ là những cổ vật đắt tiền, mà chủ yếu bao gồm nhiều thứ rất bình thường trong đời sống hàng ngày của người dân như: con dao, cái gùi, chiếc khố, ống sáo, cái tẩu, tấm chiếu… Chúng phản ánh mọi khía cạnh văn hoá vật thể và phi vật thể của cộng đồng dân cư, thể hiện tiêu biểu mọi mặt cuộc sống và mọi sáng tạo văn hoá của họ. Bởi vậy, trong Bảo tàng này, hiện vật rất phong phú, có thể hình thành được nhiều sưu tập theo các tiêu chí khác nhau. Bảo tàng có 54 bộ sưu tập về từng dân tộc, như: về người Thái, về người Hmông, về người Gia Rai… Phân chia theo công dụng, có các sưu tập về y phục, các đồ trang sức, về nông cụ, về ngư cụ, về vũ khí, về đồ gia dụng, về nhạc cụ… Lại có tập hợp riêng về các hiện vật tôn giáo-tín ngưỡng, cưới xin, ma chay hay nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác. Trên cơ sở đó, Bảo tàng tổ chức trưng bày và xuất bản sách ảnh theo các dạng thức sưu tập khác nhau, bổ ích và lý thú đối với mọi đối tượng, mọi trình độ học vấn.
BTDTHVN được triển khai theo nhiều quan niệm mới phù hợp với sự tiến bộ khoa học và kỹ thuật. Trước hết đó là quan niệm Bảo tàng dành cho tất cả mọi người. Quan niệm này được thể hiện trong cả kiến trúc lẫn trong kỹ thuật trưng bày. Bảo tàng có lối đi riêng thích hợp cho thương binh hay những người khuyết tật phải di chuyển bằng xe đẩy và có thang máy để họ lên xem tầng hai. Các bậc lên xuống đều có tay vịn cho người già yếu tiện đi lại. Trong trưng bày, kế thừa kinh nghiệm của nhiều bảo tàng trên thế giới, BTDTHVN đã không chọn chữ in mà chọn chữ viết thường cho tất cả các bài viết để người xem ở các lứa tuổi có thể đọc dễ dàng và không mỏi mắt. Các tấm pa nô cũng được treo ở tầm cao có tính toán phù hợp với cả lứa tuổi thiếu nhi. Phần trưng bày của Bảo tàng có hiện vật, có ảnh, bài viết, có băng hình, có các tư liệu tham khảo… mà người xem tuỳ trình độ và nhu cầu khác nhau có thể khai thác nhiều hay ít.
Phần trưng bày thường xuyên của Bảo tàng hiện nay chỉ trưng bày một số lượng hiện vật hạn chế: gần 700 hiện vật khối và 280 ảnh. Quan điểm chủ đạo là không tham đưa quá nhiều hiện vật vào trong các tủ trưng bày, bởi sẽ gây cảm giác thừa ứ hoặc khó tiếp cận được một cách tập trung.
Phương pháp bố trí nội dung trong trưng bày của Bảo tàng là kết hợp giữa cộng đồng ngôn ngữ và vùng lãnh thổ. Hầu hết hiện vật trưng bày là hiện vật gốc, được lựa chọn và chủ yếu phô bày trong 97 tủ kính lớn nhỏ khác nhau: có loại tủ 1 mặt, có loại 4 mặt, có tủ chứa nhiều hiện vật, có tủ chỉ đặt 1 hoặc vài ba hiện vật. Trong số đó, hơn 50 tủ có bài viết giới thiệu kèm theo. Mỗi hiện vật đều có phụ đề ghi rõ tên gọi hiện vật, đồng thời cho biết dân tộc và xứ sở sản sinh ra nó. Bảo tàng cũng sử dụng manơcanh, bản đồ, biểu đồ, sách cứng, ảnh, phim video, băng âm thanh, một số mô hình và 33 pa nô trong trưng bày. Mặc dù diện tích không lớn, nhưng trong nhà vẫn có một số điểm nhấn được trưng bày theo hình thức tái tạo về một tập tục hay một nét văn hoá nào đó. Người xem có thể hiểu được nội dung tái tạo không chỉ thông qua hệ thống hiện vật, mà còn có cả phim video nữa.
Bảo tàng cố gắng tìm các giải pháp kỹ thuật hiện đại trong phương pháp thể hiện trưng bày như việc sử lý ánh sáng, dùng đèn chuyên dụng chiếu vào từng hiện vật hay từng bộ phận của hiện vật làm nổi lên vẻ đẹp cần gây sự chú ý quan sát. Trong điều kiện hiện nay, Bảo tàng đã lựa chọn phương án thông khí cho toàn bộ khu trưng bày. Từng tủ kính đều được lắp hệ thống thông khí để đảm bảo cho hiện vật không bị mốc.
Đối với khu ngoài trời, do đất hẹp nên Bảo tàng chỉ có thể dựng 9 công trình kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như: Nhà rông của người Ba Na, nhà sàn dài của người Ê Đê, nhà sàn của người Tày, nhà nửa sàn nửa đất của người Dao, nhà trệt lợp ván pơmu của người Hmông, nhà ngói của người Việt, nhà trệt của người Chăm, nhà trình tường của người Hà Nhì, nhà mồ của người Gia Rai. Xen giữa các công trình kiến trúc dân gian đó là cây xanh các loại, các lối đi ngoằn ngoèo và cả con suối uốn khúc chảy suốt 4 mùa, có cầu bắc nối đôi bờ. Những trưng bày ở phần này đang từng bước được thực hiện.
Với không gian thoáng và cảnh quan đẹp, Bảo tàng bao gồm 2 khu vực chính: khu vực trong nhà và ngoài trời do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh (người dân tộc Tày) thiết kế, nội thất công trình do kiến trúc sư người Pháp đảm nhiệm. Tại đây hiện đang lưu giữ khoảng 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm theo ảnh), hàng trăm băng video, cassette trưng bày nhiều kỷ vật phản ánh mọi mặt đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán của 54 dân tộc anh em, tái tạo thành công những sinh hoạt tôn giáo tiêu biểu cho từng tộc người…
Nơi đây không chỉ là trung tâm lưu giữ và trưng bày quý giá về văn hóa mà còn là nơi tổ chức nghiên cứu khoa học, sưu tầm, phân loại, đánh giá, bảo quản, phục chế, trưng bày, giới thiệu, khai thác các giá trị lịch sử, văn hóa về phương diện dân tộc học của các dân tộc anh em.
Khu vực bên trong bao gồm các khối nhà trưng bày, cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản… Phần trưng bày trong nhà chiếm trọn tòa nhà 2 tầng có dáng mô phỏng hình chiếc trống đồng. Các khối nhà liên hoàn với nhau, mỗi gian trưng bày của từng tộc người thể hiện trong việc trưng bày hiện vật theo lối kể chuyện. Câu chuyện được liên kết chặt chẽ, xuyên suốt với nhau bằng nhóm hiện vật, luôn thay đổi sự hấp dẫn, thỏa mãn nhu cầu khác nhau của người xem. Mỗi gian trưng bày là một câu chuyện lớn phản ánh cuộc sống muôn màu muôn vẻ của đồng bào các dân tộc Việt Nam.
Hiện vật được trưng bày trong bảo tàng rất phong phú, từ y phục, đồ trang sức, vật dụng quen thuộc trong sinh hoạt hàng ngày của các dân tộc như gùi, dao, cuốc, nông cụ… Mỗi hiện vật trong bảo tàng đều có phụ đề ghi rõ tên gọi, nguồn gốc xuất xứ, tư liệu tham khảo. Các sinh hoạt tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng như ma chay, cưới hỏi được thể hiện dưới những thước phim video sinh động và cuốn hút, có tác dụng phổ biến kiến thức rất hiệu quả. Các hiện vật ở đây được trang trí thật đơn giản, không cầu kỳ, để người xem có thể cảm thụ nhiều nhất cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của mỗi hiện vật rất bình dị, đời thường.
Khách được tham quan các hiện vật được trưng bày tại khu trưng bày thường xuyên, khu trưng bày chuyên đề, khu trưng bày lưu động và khu trưng bày ngoài trời. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam còn là điểm dã ngoại ngoài trời thú vị đối với những gia đình có con nhỏ trong những ngày cuối tuần. Khu trưng bày ngoài trời với những mẫu nhà đặc trưng của mỗi dân tộc thực sự là nét sinh động cho việc học tập, nghiên cứu của các em học sinh cũng như những người nghiên cứu, tìm hiểu về phong tục, tập quán của các dân tộc.
Hiện tại, bảo tàng mới dựng được 9 công trình kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như nhà rông của người Ba Na, nhà sàn dài của người Ê Đê, nhà trình tường của người Hà Nhì… Giữa các ngôi nhà là những lối đi nhỏ bên những con suối uốn khúc, những cây cầu nhỏ tạo không gian và phong cảnh rất gần gũi với đời sống của từng tộc người Việt Nam. Đến đây, du khách không chỉ tham quan, giải trí mà còn nghiên cứu, tìm hiểu về các dân tộc, bản sắc văn hóa của từng dân tộc cũng như giá trị truyền thống chung của các dân tộc.
Đặc biệt, chương trình biểu diễn múa rối nước đặc sắc của các phường rối Miền Bắc được diễn ra thường xuyên ở đây. Du khách không những được xem các nghệ sỹ biểu diễn múa rối mà còn được giao lưu với họ, được tự tay điều khiển con rối dưới nước rất thú vị. Các lớp học thủ công, thêu vải cho học sinh thường xuyên được tổ chức vào các dịp hè giúp các em vừa vui chơi giải trí vừa có thể học được nhiều kỹ năng thêu cơ bản.
Bảo tàng mở cửa đón khách tham quan tất cả các ngày trong tuần, trừ thứ hai. Với các hoạt động phong phú và đa dạng, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một địa chỉ lý tưởng cho những du khách muốn nghỉ ngơi, thư giãn, thưởng thức nghệ thuật và khám phá về văn hóa Việt Nam. Bảo tàng rất thích hợp cho ngày nghỉ cuối tuần của các gia đình.
Lịch sử hình thành và quá trình hoạt động
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được thành lập theo quyết định của thủ tướng chính phủ ngày 24 tháng 10 năm 1995. Bảo tàng được xây dựng trong 2 năm và chính thức khánh thành ngày 12 tháng 11 năm 1997.
Bảo tàng được thiết kế bởi kiến trúc sư Hà Đức Lịnh. Phần nội thất do bà kiến trúc sư người Pháp Véronique Dollfus thiết kế. Bảo tàng gồm hai khu vực chính: trong nhà và ngoài trời. Khu vực trong nhà bao gồm các khối nhà: nhà trưng bày, cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản, hệ thống các bộ phận kỹ thuật, hội trường… Các khối nhà này liên hoàn với nhau, có các lối đi hợp lý, với tổng diện tích 2.480m2, trong đó 750 m2 dành cho kho bảo quản hiện vật. Khu trưng bày ngoài trời đang tiếp tục được hoàn thiện.
Đây là một trong những bảo tàng có hệ thống sưu tập hiện vật phong phú, tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Trong những năm qua, bảo tàng đã có nhiều hoạt động sưu tầm hiện vật và phổ biến các giá trị văn hóa vật thể – phi vật thể của các dân tộc Việt Nam thông qua các cuộc trưng bày, không chỉ tại bảo tàng mà còn tham gia các hoạt động trưng bày chuyên đề và trình diễn tại nhiều quốc gia như Mỹ, Canada, Bỉ, Áo…
Đặc điểm của bảo tàng
Hiện nay, phần trưng bày trong nhà chiếm trọn toà nhà 2 tầng có dáng mô phỏng hình trống đồng- một biểu tượng chung của nền văn minh Việt Nam cũng như nhiều nước khác trong khu vực. Chiếc cầu đá granít dẫn vào toà nhà Bảo tàng tạo cảm giác như đang bước lên căn nhà sàn phổ biến ở nhiều vùng. Mặt nền sảnh lớn toà nhà này được trang trí bằng đá granit với biểu trưng theo hình thể của Tổ quốc có đất liền và biển cả.
Hiện vật của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam không phải chỉ là những cổ vật đắt tiền, mà chủ yếu bao gồm nhiều thứ rất bình thường trong đời sống hàng ngày của người dân như: con dao, cái gùi, chiếc khố, ống sáo, cái tẩu, tấm chiếu… Chúng phản ánh mọi khía cạnh văn hoá vật thể và phi vật thể của cộng đồng dân cư, thể hiện tiêu biểu mọi mặt cuộc sống và mọi sáng tạo văn hoá của họ.
Trong bảo tàng này, hiện vật rất phong phú, có thể hình thành được nhiều sưu tập theo các tiêu chí khác nhau. Bảo tàng có 54 bộ sưu tập về từng dân tộc, như: về người Thái, về người Hmông, về người Gia Rai… Phân chia theo công dụng, có các sưu tập về y phục, các đồ trang sức, về nông cụ, về ngư cụ, về vũ khí, về đồ gia dụng, về nhạc cụ… Lại có tập hợp riêng về các hiện vật tôn giáo-tín ngưỡng, cưới xin, ma chay hay nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác.
Nội dung trưng bày trong bảo tàng
Trưng bày trong nhà: Phần lớn diện tích trong nhà được bố trí trưng bày thường xuyên, bên cạnh đó có dành riêng một không gian để tổ chức các trưng bày nhất thời theo chuyên đề. Hiện tại, trưng bày thường xuyên trong nhà được bố trí như sau:
Tầng 1 trưng bày 2 phần chính:
Giới thiệu chung các dân tộc Việt Nam
Giới thiệu các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, bao gồm: Việt (Kinh), Mường, Thổ, Chứt.
Tầng 2 chia thành các phần:
Các dân tộc Chăm, Hoa, Khơme
Ngữ hệ Nam Đảo ở miền núi: giới thiệu các dân tộc Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru
Nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme ở miền núi: giới thiệu 5 dân tộc ở miền Bắc (Khơ Mú, Xinh Mun, Mảng, Kháng, Ơ Đu) và 15 dân tộc ở miền Trung – Tây Nguyên.
Nhóm ngôn ngữ Hán – Tạng: giới thiệu các dân tộc Cống, Sán Dìu, Ngái, Lô Lô, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Si La
Nhóm Hmông – Dao: giới thiệu các dân tộc Hmông, Dao, Pà Thẻn.
Nhóm Tày Thái – Kađai: giới thiệu các dân tộc Tày, Nùng, Sán Chay, Thái, Bố Y
Trưng bày ngoài trời
Đối với khu ngoài trời, do đất hẹp nên Bảo tàng chỉ có thể dựng 9 công trình kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như:
Nhà rông của người Ba Na
Nhà sàn dài của người Ê Đê
Nhà sàn của người Tày
Nhà nửa sàn nửa đất của người Dao
Nhà trệt lợp ván pơmu của người Hmông
Nhà ngói của người Việt
Nhà trệt của người Chăm
Nhà trình tường của người Hà Nhì
Nhà mồ của người Gia Rai.
Xen giữa các công trình kiến trúc dân gian đó là cây xanh các loại, các lối đi ngoằn ngoèo và cả con suối uốn khúc chảy suốt 4 mùa, có cầu bắc nối đôi bờ. Những trưng bày ở phần này đang từng bước được thực hiện.
Những gì thuộc về đời thường thì phải trả lại đời thường
Người Pà Thẻn mặc trang phục đỏ trong mọi hoạt động là hình ảnh giả tạo, được tạo ra bởi những nhà nhiếp ảnh, nhà nghiên cứu của ta muốn nhìn họ với góc nhìn quen thuộc nhưng bất ổn. Những gì thuộc sinh hoạt đời thường thì phải trả về đời thường, qua đó sẽ cho ta cái nhìn và nhận thức mới về người Pà Thẻn thấm đậm hơn.
Thưa ông, lý do gì khiến Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (bảo tàng) chọn trưng bày triển lãm ảnh “Người Pà Thẻn” do chỉ một nhà nhiếp ảnh người Pháp (Sebastien Laval) thực hiện?
Đây là dự án hợp tác của bảo tàng với Hiệp hội các dân tộc Á châu (thành lập đầu năm 2006, là nơi tập hợp, thu hút những nhà nghiên cứu, những nghệ sĩ yêu văn hóa các dân tộc châu Á, đặc biệt là Việt Nam). Dự án “Tiếng nói các dân tộc Việt Nam” của Hiệp hội với mục đích tái hiện khách quan phong tục truyền thống và cuộc sống hiện tại của các dân tộc thông qua ngôn ngữ hình ảnh với những hình ảnh chuyên nghiệp, chất lượng cao, đặc biệt giúp công chúng hiểu về các dân tộc ấy qua “tiếng nói” của chính họ.
Hiệp hội chọn Pà Thẻn vì dân số ước tính chỉ 4300 người, cuộc sống lại có nhiều thay đổi đáng kể, từ du canh du cư thành định cư. Nguyện vọng của họ phù hợp với tiêu chí hoạt động của bảo tàng, Sebastien Laval là người gắn bó và hiểu các dân tộc thiểu số Việt Nam, nên tôi đã đưa triển lãm ảnh về đây.
Trong ý niệm của công chúng lâu nay, người Pà Thẻn là hình ảnh những người phụ nữ trong trang phục dân tộc đỏ (mặc váy đỏ, khăn đội đầu màu đỏ), hay hình ảnh phụ nữ thổi sáo…nhưng qua triển lãm này thì sao?
Người Pà Thẻn mặc trang phục đỏ trong mọi hoạt động là hình ảnh giả tạo, được tạo ra bởi những nhà nhiếp ảnh, nhà nghiên cứu của ta muốn nhìn họ với góc nhìn quen thuộc nhưng bất ổn. Người Pà Thẻn cứ thấy khách đến, chuẩn bị chụp ảnh là họ thay quần áo. Khi Sebastien Laval đưa đến đây 100 bức ảnh, tôi đã đề nghị anh bỏ đi những bức chụp như những người khác. Vẫn có vài tấm họ mặc trang phục đỏ để chụp ảnh, còn những gì thuộc sinh hoạt đời thường thì phải trả về đời thường ấy, họ đi nương, đi gùi, ở nhà nấu bếp, chăm lợn gà… thế nào, bình thường họ ăn mặc ra sao? Qua đó sẽ cho ta cái nhìn và nhận thức mới về người Pà Thẻn thấm đậm hơn, sẽ hiểu cuộc sống của họ hơn.
Có đáng tiếc không khi trong cái nhìn chân thực ấy, công chúng sẽ thấy cả những góc đã bị “hiện đại hóa” của người Pà Thẻn?
Họ vẫn có nhu cầu giữ bản sắc riêng, nhưng thực tế cuộc sống của họ phải thay đổi. Cũng như chúng ta, trang phục truyền thống chỉ còn mặc trong những dịp lễ hội, còn lại thì chúng ta đã Âu hóa, người Pà Thẻn cũng như vậy. Đó là câu chuyện toàn cầu hóa, người Pà Thẻn ở nơi xa xôi hẻo lánh như thế cũng phải hội nhập. Cuộc sống của họ chịu nhiều thách thức, ngoài thách thức vượt sự nghèo khổ thì còn thách thức phải học theo cái gì, giữ lại cái gì là bản sắc?
Cách đây không lâu, một ngẫu nhiên thú vị xảy ra với tôi. Một cô gái trẻ 22 tuổi, người Pà Thẻn là Phù Thị Thiên (công tác tại trung tâm văn hóa huyện Quang Bình, Hà Giang) tâm huyết với văn hóa dân tộc mình, gửi thư cho giám đốc bảo tàng, bày tỏ băn khoăn rằng cô đến đây thấy bảo tàng trưng bày về người Pà Thẻn quá ít, không đầy đủ. Tôi đã ngỡ ngàng vì nhu cầu mạnh mẽ và “đúng lúc” như vậy.
Tôi đã đề nghị Hiệp hội các dân tộc Á châu mời Thiên cùng những người bạn của cô đến đây dự khai mạc, để những người Kinh chúng ta có dịp tiếp xúc trực tiếp và hiểu hơn về những suy nghĩ của họ. Vậy mà có người còn không tin họ là người “Pà Thẻn xịn”, cũng do trong nhiều sự kiện ta đã đánh tráo bằng người Kinh mặc áo dân tộc. (Cũng nói thêm là nhiều khách đến thăm đề nghị bảo tàng của tôi để những người thuyết minh mặc trang phục dân tộc sẽ ấn tượng hơn, nhưng đó không phải là sứ mệnh của bảo tàng. Tôi nghĩ điều quan trọng nhất là sự trung thực, “quần áo của ai thì người ấy mặc”).
Liệu những triển lãm ảnh như thế này có góp phần, dù nhỏ bé, giúp các dân tộc như Pà Thẻn nâng cấp cuộc sống, và bảo tồn được bản sắc riêng của họ không, thưa ông?
Chính sự có mặt ở đây sẽ giúp những cô gái Pà Thẻn có những nhận thức mới mẻ. Họ sẽ hiểu những giá trị di sản mà họ đang nắm giữ được xã hội tôn trọng ra sao? Tự họ sẽ thấy tự hào, thấy trách nhiệm, và sẽ quyết định họ muốn bảo tồn di sản của họ như thế nào? Đóng góp của bảo tàng chúng tôi là giúp họ về nhận thức, để những người trẻ như họ sẽ có suy nghĩ về chiến lược lâu dài.
Bên cạnh đó, cũng có sự giúp đỡ kinh tế trực tiếp ngay. Tôi đã là cầu nối để Phù Thị Thiên gặp gỡ ông Trần Đoàn Lâm, giám đốc NXB Thế giới, đồng thời là Chủ tịch quỹ phát triển cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam – Đan Mạch. Chính Thiên sẽ làm dự án đề xuất để quỹ trợ giúp việc bảo tồn và phát triển một mảng văn hóa dân gian, hay một nghề cổ truyền của dân tộc cô. Tôi tin với sự mạnh mẽ, năng động, Thiên và những người như cô sẽ làm được.
Với những hoạt động này, chúng tôi cố gắng tạo ra hướng bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn các nghề thủ công gắn với việc phát triển kinh tế. Từ góc nhìn của những người làm bảo tàng, quan niệm và kinh nghiệm của tôi là hãy làm những việc nhỏ nhưng thiết thực, mang lại ích lợi cho chính cộng đồng những dân tộc thiểu số đang nắm giữ văn hóa. Như thế sẽ có hiệu quả, có tác động sâu sắc, rồi từ đó sẽ lan ra, sẽ nhân rộng .
Cách đây mấy năm, Bảo tàng đã thực hiện dự án trao máy ảnh cho những người thợ dệt dân tộc Lào (huyện Điện Biên Đông, nay thuộc tỉnh Điện Biên). Người của Bảo tàng lên trao đổi với họ, hỏi họ về ý nghĩa của từng bức ảnh mà họ chọn chụp. Từ những trao đổi giao lưu thì tự họ nhận thức ra giá trị của nghề dệt, ý nghĩa và những câu chuyện truyền thuyết xung quanh các hoa văn, giá trị của việc dùng các màu nhuộm tự nhiên…
Bảo tàng đã đứng ra tổ chức hai cuộc triển lãm ảnh của họ chụp, một ở Bảo tàng, một ở ngay trong bản của họ. Sau đó một tháng, gần chục đoàn khách du lịch đến thăm làng (trong khi trước đó chưa có lấy một người nước ngoài bước chân đến đó), rồi làng trở thành điểm đến cho các tour du lịch. Vậy là người dân có những nhận thức mới, họ phục hồi sản xuất và tạo ra những sản phẩm mới để bán, làng bản họ giữ vệ sinh hơn, cuộc sống của họ cũng có những thay đổi thích hợp để đón khách tốt hơn nữa. Chính những điều này đã thay đổi cuộc sống của họ.
Năm ngoái, lần đầu tiên những người thợ dệt – vốn luôn sống khép mình trong bản làng – biết tự mình mang sản phẩm xuống Hà Nội để tham gia hội chợ triển lãm Craft Link, bán ngay ở sân Bảo tàng. Tôi cũng đã bàn với Craft Link, xin UNESCO ở Paris kinh phí để mở những lớp học giúp cho nhóm đổi mới mẫu mã, thích ứng với cuộc sống mới mà vẫn giữ những giá trị, những hoa văn truyền thống.
Cách làm đó của Bảo tàng đã được nhân rộng ra ở nhiều dự án khác, như dự án với làng gò đồng Đại Bái, hay dự án trao máy ảnh cho những người dân phố cổ Hà Nội.
Vậy sau triển lãm “Người Pà Thẻn”, ông có nghĩ cuộc sống của họ sẽ thay đổi thế nào không?
Tôi cũng sẽ bàn với chị Nguyễn Nga, Chủ tịch Hiệp hội các dân tộc Á Châu để đưa triển lãm này lên trưng bày ở Hà Giang, ở ngay làng Pà Thẻn. Tôi cũng được biết, Hiệp hội đã có dự án xây dựng một nhà trưng bày ở giữa làng của họ. Đây không chỉ là nơi treo những bức ảnh, mà còn là nơi để họ gặp nhau cho những sinh hoạt tập thể, nơi khách du lịch có thể dừng chân và ngủ qua đêm, gặp gỡ giao lưu với người bản xứ. Hội sẽ tìm kinh phí hỗ trợ để chính họ dựng lên ngôi nhà như họ mong muốn. Tôi nghĩ ý tưởng này nằm trong tầm tay, bởi rất phù hợp với mục tiêu của quỹ Việt Nam – Đan Mạch.
Chính những triển lãm như thế này là sự khởi đầu cho nhiều thay đổi về tư duy, nhận thức, sẽ mở ra một chân trời mới cho chính cộng đồng.
Cách chuẩn bị tour – tạo ấn tượng với khách du lịch: https://goo.gl/vNZdqE Ý nghĩa hình tượng các con vật trong đền, miếu, mạo : https://goo.gl/hVAzor Những cái nhất của vua chúa Việt Nam : https://goo.gl/3PGEga Nét văn hóa các dân tộc Việt Nam: https://goo.gl/qunyjv Sơ lược về đạo mẫu Việt Nam: https://goo.gl/WzzvQF Các trò chơi hoạt náo trên xe: https://goo.gl/Kq7CDi Thuyết minh 6 tỉnh miền Tây: https://goo.gl/CZpqgE
Học Phí Các Trường Mầm Non
Việc lựa chọn cho con em mình một môi trường học tập phù hợp với kinh tế gia đình và đạt được chất lượng như mong muốn luôn được đặt ra hàng đầu. Hiện nay, trên địa bàn TPHCM có rất nhiều các trường mầm non công lập lẫn tư nhân. Vì vậy để chọn cho con mình một trường phù hợp thật sự rất khó.
Hiểu được điều đó, bài viết hôm nay sẽ chia sẽ cho quý phụ huynh một số trường mầm non và mức học phí để mọi người có thể chọn cho con em mình một cách phù hợp nhất!
Theo những thông tin về mức học phí được cập nhật năm 2017-2018 mới đây, học phí các trường công lập trung bình dao động từ 1tr5 đến 3tr/tháng. Các trường mầm non quy mô nhỏ hơn, trong hẻm hoặc những quận xa trung tâm thì có mức học phí từ 1tr -1tr/tháng. Tùy vào năm mà mức học phí có dao động đôi chút.
Tuy nhiên, cũng không tăng nhiều so với năm cũ. Nếu gia đình có kinh tế khó khăn hay ở mức trung bình thì đây là sự lựa chọn phù hợp cho con em mình. Khi lựa chọn một trường mầm non cho các em học, quý phụ huynh không chỉ xem xét về mức học phí mà còn phải chú trọng đến chất lượng để con em mình có một môi trường học tập đầy đủ và tốt nhất!
Các trường Tư thục thì mức học phí chênh lệch hơn rất nhiều.
Theo các nguồn khảo sát thì mức dao động từ 3tr đến 6tr. Tùy vào trường nước ngoài hay việt nam sẽ có mức giá khác nhau. Học phí cao nhưng khi các em được học ở đây sẽ có nhiều cơ hội để phát triển hơn. Môi trường sạch đẹp, đầy đủ các thiết bị học tập lẫn giải trí để các em tha hồ vận dụng trí óc và sáng tạo.
1. Trường mầm non Bảo Ngọc – Trường Chinh – (2tr-3.5tr)
2. Trường mầm non Thần Đồng – Lê Trọng Tấn – (1.94tr)
3. Trường mầm non Việt Mỹ Vaschools – Quang Trung – (4tr-4.4tr)
4. Trường mầm non Bambi – K300-C18 – (1tr)
5. Mầm non tư thực Cầu Vòng – Hoàng Hoa Thám – (1.2tr-2.2tr)
6. Mầm non Hoa Mặt Trời – Trường Sơn – ( 2.1tr -2.6tr)
7. Mầm non tư thục Họa My – Núi Thành – (2-2.2tr)
8. Mầm non tư thục Cầu Vòng – Bình Gĩa – (1.2tr-2.2tr)
9. Mầm non Hoa mặt trời – Nguyễn Cảnh Dị – ( 3.4-3.75tr)
10. Trường mầm non quốc tế Kindy City – Cộng Hòa – (9.96-11.2tr)
11. Mầm non chuột túi thông minh – Lam Sơn – (2.9tr)
12. Mầm non quốc tế Sài Gòn Academy – Nguyễn Thái Bình – – ( 7.7-7,9tr)
13. Trường mầm non quốc tế Sài Gòn _ Bùi Thị Xuân – (7.7-7.9tr)
14. Trường mầm non Việt – (từ 6tr tháng)
15. Trường mầm non Wordkids – (từ 5.1tr/tháng)
16. Trường mầm non Mỉm cười – (từ 6tr/tháng)
17. Hệ thống trường mầm non Gấu – (Website: http://mamnongau.com)
18. Trường mầm non – tiểu học quốc tế Việt Mỹ Úc – (2.2-6tr/tháng)
19. Trường mầm non Thần Đồng – (từ 3tr)
20. Trường mầm non Việt Mỹ – (4-6tr/tháng)
21. Trường mầm non Kidzone – (3.9tr/tháng)
22. Trường mầm non Hooray – (6.6-8.3tr/tháng)
Bạn đang đọc nội dung bài viết Hướng Dẫn Về Học Phí Dành Cho Khóa 26 Của Trường Đại Học Văn Lang trên website Asus-contest.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!