Cập nhật nội dung chi tiết về Cách Làm Lễ Dâng Sao Giải Hạn Ở Đâu Năm 2022? mới nhất trên website Asus-contest.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Vì nhiều bạn có hỏi thầy Pá vi về cách làm lễ dâng sao giải hạn, nên hôm nay thầy sẽ nói chi tiết về việc cúng giải hạn có ích lợi gì, cúng lễ ở đâu và làm khi nào là tốt nhất.
Lễ cúng sao giải hạn là gì?
Tuỳ theo vùng miền và mỗi dân tộc mà có cách gọi khách nhau, hoặc gọi là lễ giải hạn hay cúng sao giải hạn đều được. Tôi sẽ giải thích một cách sơ lược về những tên gọi đó để các bạn có cách hiểu dễ nhất về nó.
Theo quan niệm của dân miền xuôi, hay cách gọi của người miền ngược là dân kinh có tục dâng sao giải hạn đầu năm âm lịch hàng năm, thường được tổ chức vào ngày rằm tháng giêng. Với người Thái thì chỉ ngắn gọn gọi với cái tên lễ giải hạn, khác với người kinh thì người Thái quan niệm giải hạn khi nào trong năm cũng được, chứ không cố định vào rằm tháng giêng.
Làm lễ dâng sao giải hạn năm 2019 ở đâu?
Thông thường người dân tộc Kinh thường tiến hành dâng sao giải hạn vào đầu năm âm lịch, thường vào rằm giáng giêng. Lễ cúng giải hạn tự làm tại nhà, hoặc thông thường nhờ sư thầy tại các đền chùa tiến hành lễ giúp. Lễ sẽ tuỳ từng năm của người muốn làm lễ mà lớn hay nhỏ, năm càng xấu lễ phải càng to và ngược lại.
Vậy cứ đến đình chùa hay tự làm giải hạn tại nhà là được hay sao?
Với mỗi người sẽ có ngày giờ sinh cụ thể khác nhau, nên ngôi sao chiếu mệnh cũng là khác nhau, nên lễ làm với mỗi người cũng sẽ là khác nhau, và tuỳ từng năm mà lễ cũng có sự thay đổi. Ngày giờ tốt để cúng sao giải hạn cho mỗi người cũng sẽ hoàn toàn khác nhau, chứ không hoàn toàn giống nhau. Các đền chùa thường nhận giải hạn chung cho rất nhiều người cùng một lúc với lễ gần như chung, chứ không riêng ra từng người để tiết kiệm chi phí và sức lực của chính người đứng ra chủ trì lễ giải hạn đó. Nên kết quả thu được cũng rất hạn chế, chứ không tối ưu cho mỗi bản mệnh cụ thể. Thêm vào đó trình tự và lời thiêng – thần chú dùng để cúng cũng là khác nhau, có rất nhiều bài khấn được in thành sách và đăng lên mạng để mọi người có thể tự tiến hành. Song điều quan trọng nhất, thiết yếu nhất thì lại bị bỏ qua đó là người đứng ra chủ trì làm lễ giải hạn đó có “căn cơ, có ma theo không, đã được phong lên thầy Mõ môn hay chưa?” Cùng một lời nói ra, song nếu là thầy bùa cao tay như thầy Pá vi nói ra sẽ có uy hơn là người thường hoặc người chưa đủ thần lực làm. Vậy nên cùng là giải hạn song người khác nhau làm với cách khác nhau thì kết quả thu được cũng có khách nhau: người có may mắn, thuận lợi cả năm sau khi giải hạn; người lại chỉ có kết quả một phần, hoặc vẫn khó khăn như thường sau khi làm lễ giải hạn là vì như vậy.
Theo quan niệm thuyết âm lịch thì có những hạn quan trọng cần làm lễ giải là: giải hạn tam tai, giải hạn đầu năm (hay còn gọi với các tên tương ứng với bảy sao: sao Nhật Diệu, sao Nguyệt Diệu, sao Hỏa Diệu, sao Thủy Diệu, sao Mộc Diệu, sao Kim Diệu, sao Thổ Diệu) , giải hạn sao la hầu, giải hạn sao kế đô, giải hạn sao thái bạch, lễ giải hạn 49 tuổi.
Cách giải hạn của người kinh tốt nhất nhằm đúng ngày rằm tháng giêng âm lịch mà làm. Trong khi với cách giải hạn người Thái thì có thể giải bất kỳ lúc nào trong năm, kể cả vào cuối năm, miễn sao ngày đó là ngày đẹp phù hợp với ngày tháng năm sinh của người muốn làm.
a/ Giải hạn 49 tuổi, 53 tuổi.
Người xưa thường nói câu” hạn 49 chưa qua, hạn 53 đã tới”, nghĩa là tuổi 49 và 53 là hai tuổi hạn nặng nhất của đời người. Theo nhiều thầy cao tay thì không chỉ hai tuổi đó là hạn nặng nhất, mà nghĩa của câu nói đó là từ 49 tới 53 tuổi là khoảng thời gian người đó sẽ bị hạn nặng nhất đời người. Nếu không giải hạn đúng cách và thích hợp sẽ chịu rất nhiều phiền phức, nhiều trường hợp đánh đổi tính mạng khi tới tuổi này.
Có 3 cách lý giải điều này:
Khi cộng dồn số 49 ta thấy:
4 + 9 = 13
1 + 3 = 4,
Tương ứng với nam gặp sao Thái Bạch, nữ gặp sao Thái Âm;
Khi cộng dồn số 53 ta thấy:
5 + 3 = 8
Tương ứng nữ gặp sao Thái Bạch, nam gặp sao Thái Âm.
Mà “Thái” là quá,
“Bạch” là trắng (chủ về tang chế, tai nạn, xương cốt).
“Âm” là tối, đen, nước, hiểm trở (chủ về ốm đau, dao kéo, xe cộ, sông nước).
Chòm sao Thái Tuế quản 12 năm hàng Chi, khởi điểm (1 tuổi) mang sao Thái tuế, cứ 12 năm lặp lại một lần.
Vào những năm có số tuổi chia cho 12 dư 1 như sau: 13, 25, 37, 49, 61, 73, 85 sẽ mang sao Thái Tuế. Mà Thái Tuế chủ về quan sự, khẩu thiệt, hao tốn, ốm đau, tang chế…
Cách giải thích 3:
Trước Thái Tuế có Thiên Không, sau Thái Tuế có Quán Sách, đôi sao này thuộc “hỏa” và không có lợi.
Theo quy luật của tạo hóa thì từ khi thai nghén, con người đã theo chu kỳ 7 x 7. Theo đó, các mốc có số 7 như 7 giờ, 7 ngày, 7 tuần, 7 tháng, 7 năm đều đánh dấu sự thay đổi quan trọng . Cụ thể, 7 năm thứ nhất phát triển chiều ngang, 7 năm thứ hai phát triển chiều cao, 7 năm thứ ba phát dục, 7 năm thứ tư phát triển cơ bắp, 7 năm thứ năm phát triển trí tuệ, 7 năm thứ sáu phát triển toàn diện, 7 năm thứ bảy dừng lại, ổn định, dần suy giảm. Mà 7 x 7 = 49 sẽ hết một chu kỳ. Hết chù kì này sẽ là 49, 53, có thể sẽ bị diệt vong, cũng có thể sẽ phát triển chu kỳ tiếp theo.
Về mặt tâm linh, từ tuổi 49 – 53 ứng vào con số 5 (là số ngũ hành, gồm sinh – lão – bệnh – tử – sinh). Nếu ai đó vượt qua được nghĩa là họ đã thay đổi nhịp sinh học để bước vào một chu kỳ phát triển mới trong đời”.
b/ Giải hạn tam tai
Những việc xấu thường xảy ra với người bị hạn Tam tai:
Hạn tam tai tức là hạn của 3 năm liên tiếp đến với mỗi độ tuổi mỗi người. Trong một đời mỗi người thì cứ 12 năm thì lại có ba năm liên tiếp gặp phải hạn tam tai. Thông thường hạn của năm ở giữa là nặng nhất. Những năm hạn tam tai thường sẽ gặp rất nhiều trở ngại, rủi ro , hoặc khó khăn trong công việc cũng như gia đình. Những việc như làm mới hay mua bán, làm nhà, tu sửa, lấy vợ gả chồng trong những năm hạn này phải hết sức cẩn thận.
Cần nên làm gì khi gặp hạn tam tai:
Tính khí nóng nảy một cách bất thường;
Có tang trong dòng tộc;
Dễ bị xảy ra tai nạn xe cộ;
Dễ bị thương tích cho bản thân;
Bị kiện tụng hay bị dính đến pháp luật;
Thất thoát về mặt tiền bạc;
Bị mang tiếng thị phi.
Cách tính hạn tam tai:
Năm đầu hạn tam tai, bạn không nên bắt đầu làm những việc trọng đại, quan trọng;
Năm giữa hạn tam tai, không nên dừng lại đột ngột những việc đang tiến hành (vì thường sau đó tiếp tục dễ gặp trở ngại hơn);
Năm cuối hạn tam tai, không nên kết thúc những việc quan trọng vào đúng năm này.
Cụ thể như sau:
(1) Các tuổi Thân, Tý, Thìn: gặp hạn tam tai tại các năm : Dần, Mão, Thìn
(2) Các tuổi Dần, Ngọ, Tuất: gặp hạn tam tai tại các năm : Thân, Dậu, Tuất
(3) Các tuổi Hợi, Mão, Mùi: gặp hạn tam tai tại các năm : Tỵ, Ngọ, Mùi
(4) Các tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: gặp hạn tam tai tại các năm: Hợi, Tý, Sửu.
Như vậy, có bốn tuổi sẽ gặp hạn tam tai năm thứ 3 vào năm tuổi của mình, bao gồm: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Vào năm này, những ai gặp hạn sao La Hầu (người nam) và hạn sao Kế đô (với nữ) sẽ có cùng một lúc gặp phải 3 hạn: Tam tai, năm tuổi, sao hạn. Vậy nên, sẽ có một nhóm người có hạn Tam tai rơi vào giai đoạn sao hạn Thái bạch – Thủy Diệu – Kế đô (nữ giới). Sao Thái bạch và Kế đô là những sao xấu đối với nữ giới. Cũng có nhóm người sẽ có hạn Tam tai bắt đầu vào tuổi 30 (tức 31 tuổi âm) như: Quý Hợi, Canh Thân. Theo Ngũ hành, nếu được tương sinh thì năm hạn Tam tai cũng nhẹ. Điều này đồng nghĩa nếu tương khắc (bị khắc chế), năm hạn Tam tai có thể có nhiều tai ương.
Như vậy trong năm Kỷ Hợi 2019, các tuổi gặp phải hạn Tam Tai là những người sinh vào các năm âm lịch:
1949, 1953, 1957, 1961, 1965, 1969, 1973, 1977, 1981, 1985, 1989, 1993, 1997, 2001 ( Các năm này là tính theo âm lịch chứ không phải năm dương lịch).
c/ Giải hạn sao la hầu
Sao La Hầu hay còn gọi là tên khác Khẩu Thiệt Tinh là một trong 9 chòm sao hạn đời người nhất định phải trải qua, là sao hung tinh thuộc hành Hỏa. Nhiều người không biết sao La Hầu tốt hay là xấu là bởi vì chưa biết nó là Hung tinh- sao xấu hay Cát tinh – sao tốt. Đây chính là một sao xấu mang đến những điều không may, bất kể đó là nam hay nữ cũng đều phải cẩn thận.
Cứ sau 9 năm sao La Hầu quay lại một lần ở sao La Hầu nam mạng sẽ bắt đầu từ năm được 10 tuổi, sao la Hầu nữ mạng bắt đầu từ năm được 6 tuổi.
Nam mạng tuổi: 10, 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82, 91
Nữ mạng tuổi: 6, 15, 24, 33, 42, 51, 60, 69, 78, 87, 96
Vậy là những tuổi mà sao La Hầu chiếu mạng trong năm 2019 gồm có:
Nam mạng sinh năm: 1974, 1965, 2001, 1956, 1992, 1947, 1983
Nữ mạng sinh năm: 1960, 1996, 1951, 1987, 1978, 1969
d/ Giải hạn sao kế đô
Sao Kế đô là một sao xấu rất mạnh, sao này thuộc hành Thổ chủ về hung dữ, ám muội, thị phi, buồn rầu. Với bản chất là một hung thần nên sao này gây ra những điều bất hạnh, tai ương đối với cả nam và nữ. Đặc biệt: đối với nữ giới thường là một năm gặp nhiều sóng gió, lao đao, thị phi, sức khỏe và chuyện tình cảm, tiền bạc đều bất lợi.
Cách tính hạn sao kế đô:
Thời điểm mà sao Kế đô ảnh hưởng mạnh nhất đó là tháng 3 âm lịch và tháng 9 âm lịch. Hạn sao Kế đô này gây ra khiến cả nhà bao trùm một bầu không khí ưu phiền, lo lắng, “bi ai khóc ròng”. Chính vì vậy ai chị chiếu mạng sao kế đô nên tìm thầy giỏi để giải hạn cho nhanh, không sẽ chịu bất hạnh khôn lường.
Cũng như hạn sao La hầu cứ 9 năm sao kế đô quay lại một lần, nam mạng được tính từ năm 7 tuổi, nữ mạng được tính từ năm 10 tuổi, cụ thể:
Nam mạng tuổi: 7, 16, 25, 34, 43, 52, 61, 70, 79, 88 và 97 tuổi.
Nữ mạng tuổi: 10, 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82 và 91 tuổi.
Như vậy những người sinh vào các năm sau đây sẽ chịu hạn sao Kế đô trong năm 2019:
Nam mạng sinh năm: 2013, 2004, 1995, 1986, 1977, 1969, 1960, 1951.
Nữ mạng sinh năm: 2010, 2001, 1992, 1983, 1974, 1965, 1956, 1947.
e/ Giải hạn sao thái bạch:
Cách tính hạn sao Thái bạch:
Người ta truyền miệng nhau rằng: “Sao Thái Bạch sạch hết cửa nhà”. Sao Thái bạch thuộc hành Kim, là một hung tinh – sao xấu, gây ra hao tốn tiền bạc rất lớn. Gặp phải sao Thái Bạch chiếu mệnh thường hao tốn tiền bạc tài sản lớn, gặp tiểu nhân, kẻ xấu hãm hại, nhiều vướng mắc, rắc rối với luật pháp, dễ mắc các bệnh về nội tạng. Hàng năm, cứ bước sang năm mới khi gặp sao Thái Bạch ai nấy cũng có tâm lý lo lắng, hoang mang, nên việc giải hạn vô cùng quan trọng với những người này.
Nam mạng tuổi: 4, 13, 22, 31, 40, 49, 58, 67, 76, 85 và 94 tuổi.
Nữ mạng tuổi: 8, 17, 26, 35, 44, 53, 62, 71, 80, 89 và 98 tuổi
Như vậy những người sinh vào các năm sau đây sẽ chịu hạn sao Thái bạch trong năm 2019:
Nam mạng sinh năm: 2007, 1998, 1989, 1980, 1971, 1962, 1953.
Nữ mạng sinh năm: 2003, 1994, 1985, 1976, 1967, 1958, 1949.
f/ Ngoài những hạn nặng trên, còn những hạn nhẹ khác khi tuổi bị chiếu tương ứng với các sao còn lại trong 10 sao như đã nói.
Nam giới tuổi : 11-20-29-38-47-56-65-74-83
Nữ giới tuổi : 05-14-23-32-41-50-59-68-77
Nam giới tuổi : 12-21-30-39-48-57-66-75-84
Nữ giới tuổi : 09-18-27-36-45-54-63-72-81
Nam giới tuổi : 05-14-23-32-41-50-59-68-77
Nữ giới tuổi : 07-16-25-34-43-52-61-70-79
Nam giới tuổi : 06-15-24-33-42-51-60-69-78
Nữ giới tuổi : 11-20-29-38-47-56-65-74-83
Nam giới tuổi : 07-16-25-34-43-52-61-70-79
Nữ giới tuổi : 10-19-28-37-46-55-64-73-82
Nam giới tuổi : 08-17-26-35-44-53-62-71-80
Nữ giới tuổi : 04-13-22-31-40-49-58-67-76-85
Nam giới tuổi : 09-18-27-36-45-54-63-72-81
Nữ giới tuổi : 03-12-21-30-39-48-57-66-75-84
Làm sao giảm mức độ của hạn?
Tốt nhất nên giải hạn một năm 2 lần, lần đầu vào đầu năm, giải hạn lần thứ hai sau đó tuỳ vào ngày tháng năm sinh của mỗi người (liên hệ để thầy xem giúp). Lựa chọn thầy giỏi để giải hạn giúp bạn, không nên tự làm hay những chỗ không uy tín làm. Không nên xem nhẹ lễ giải hạn này.
Việc giải hạn chỉ có tác dụng giảm mức độ của “hạn bạn gặp phải”, chứ không thể giải được hoàn toàn hạn được. Thầy làm giúp bạn càng giỏi thì mực độ “gặp hạn” càng nhẹ ít đi. Còn lại phụ thuộc vào “nghiệp” bạn gây ra nữa, nên tích cực làm việc tốt, không xúc phạm, hãm hại hay gây thù với một ai đó. Làm được như vậy chắc chắn “hạn” sẽ rất ít với bạn.
Zalo – Viber – WhatsApp – Điện thoại: 0918.334.190 (tuyệt đối không gọi- chỉ nhắn tin)Mail: cuasotinhyeu255@gmail.com
Chính vì tính ưu việt là có thể giải hạn vào bất kỳ ngày nào trong năm nên cách cúng giải hạn người Thái của thầy Pá vi sẽ giúp “hạn” ít đi rất nhiều. Các anh chị thực sự cần làm lễ giải hạn, cầu siêu, hay làm bùa vui lòng liên hệ trực tiếp với thầy Pá vi theo thông tin sau:
Face: https://www.facebook.com/buayeupavi/Lưu ý: Với các anh/ chị từng làm bùa của thầy Pá vi sẽ được ưu tiên giảm 1/2 tiền lễ khi làm giải hạn.
( Thầy Pá vi, Nghệ an ngày 20/03/2019)
Cách Cúng Lễ Dâng Sao Giải Hạn
Nhằm mục đích cầu xin Thần Sao phù hộ cho bản thân và gia đình đều được khoẻ mạnh, bình an, vạn sự tốt lành, may mắn, thành đạt và thịnh vượng trong năm mới, người Việt ta thường làm lễ dâng sao giải hạn hàng năm.
Dâng sao giải hạn hàng năm
Theo chúng tôi thì 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định trong tháng, từ đó hình thành tục dâng sao giải hạn vào các ngày trong 12 tháng.
Lễ cúng dâng sao giải hạn
1. Ngày giờ dâng sao giải hạn
Sao Thái dương:
Tên gọi: Đức Nhật Cung Thái Dương Thiên Tử tinh quân
Đăng viên (thời điểm sáng nhất) lúc: 11 – 13 giờ ngày 27 âm lịch hàng tháng ở hướng chính Đông. Chòm sao này có 12 ngôi sao nhỏ.
Sao Thái Âm:
Tên gọi: Đức Nguyệt cung Thái Âm Hoàng Hậu tinh quân
Đăng viên lúc: 19 – 21 giờ ngày 26 âm lịch hàng tháng tại hướng chính Tây, chòm sao này có 7 ngôi sao nhỏ.
Sao Mộc Đức:
Tên gọi: Đức Đông phương Giáp Ất Mộc Đức tinh quân
Đăng viên: 19 – 21 giờ ngày 25 âm lịch hàng tháng tại hướng Giáp – Ất , chòm sao Mộc Đức có 20 ngôi sao nhỏ.
Sao Vân Hán (Vân Hớn):
Tên gọi: Đức Nam phương Bính Đinh Hỏa Vân Hán tinh quân
Đăng viên: 21 – 23 giờ ngày 29 âm lịch hàng tháng tại hướng Bính, chòm sao Vân Hán có 18 ngôi
Sao Thổ Tú:
Tên gọi: Đức Trung ương Mậu Kỷ Thổ Tú tinh quân
Đăng viên: 21 – 23 giờ ngày 19 âm lịch hàng tháng
Sao Thái Bạch:
Tên gọi: Đức Thái Bạch Tây phương Canh Tân Kim Thái Bạch tinh quân
Đăng viên: 19 – 21 giờ ngày 15 âm lịch hàng tháng tại hướng Canh – Tân, chòm sao Thái Bạch có 8 ngôi
Sao Thủy Diệu:
Tên gọi: Đức Bắc phương Nhâm Quý Thủy Diệu tinh quân
Đăng viên: 19 – 21 giờ, ngày 21 âm lịch hàng tháng
Sao La Hầu:
Tên gọi: Đức Bắc Thiên cung thần thủ La Hầu tinh quân
Đăng viên: 21 – 23 giờ ngày 8 âm lịch hàng tháng vào hướng chính Bắc, chòm sao La Hầu có 9 ngôi
Sao Kế Đô:
Tên gọi: Đức Tây địa cung thần vĩ Kế Đô tinh quân
Đăng viên: 21 – 23 giờ ngày 18 âm lịch hàng tháng tại hướng Tây, chòm sao Kế Đô có 21 ngôi.
2. Lễ vật cúng dâng sao giải hạn:
Đèn hoặc nến (số lượng tùy theo từng sao)
Bài vị (màu của bài vị tùy theo từng sao), viết chính xác tên sao lên bài vị (cúng sao nào viết tên sao đó)
Mũ vàng
Đinh tiền vàng (số lượng tùy bạn, không cần quá nhiều)
Gạo, muối
Trầu cau
Hương hoa, trái cây, phẩm oản
Nước (1 chai)
Lễ xong hóa cả tiền vàng, văn khấn, bài vị.
3. Màu sắc bài vị và cách bố trí nến:
Tùy theo tuổi và giới tính nam nữ mà Sao chiếu mệnh hàng năm là khác nhau. Tương ứng với mỗi Sao mà có ngày cúng, bàn lễ, hướng lạy và màu sắc bài vị, nội dung, sơ đồ nến khác nhau.
Bên trong cùng của bàn lễ là bài vị. Bài vị dán vào một cái que và cắm vào bát gạo. Tùy theo sao chiếu mạng năm đó mà viết Hán tự hoặc tiếng Việt rồi dán vào bài vị có màu phù hợp.
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Nam mô Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Thượng đế.
– Con kính lạy Đức Trung Thiện tinh chúa Bắc cựcTử Vi Tràng Sinh Đại đế.
– Con kính lạy ngài Tả Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ Tinh quân.
– Con kính lạy Đức Hữu Bắc Đẩu cửu hàm Giải ách Tinh quân.
– Con kính lạy Đức Nhật cung Thái Dương Thiên tử Tinh quân.
– Con kính lạy Đức Thượng Thanh Bản mệnh Nguyên Thần Chân quân.
Tín chủ (chúng) con là:………………………………………. Tuổi:…………………………
Hôm nay là ngày…… tháng………năm….., tín chủ con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương,
thiết lập linh án tại (địa chỉ)……………………………………………………………để làm lễ giải hạn sao …………………….. chiếu mệnh, và hạn:………………………
Cúi mong chư vị chấp kỳ lễ bạc phù hộ độ trì giải trừ vận hạn; ban phúc,lộc, thọ cho con gặp mọi sự lành, tránh mọi sự dữ, gia nội bình yên, an khang thịnh vượng.
Tín chủ con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Phục duy cẩn cáo!
Lễ xong chờ hết tuần hương thì hoá sớ, bài vị và tiền vàng rồi vẩy rượu lên. Sau đó lấy muối gạo rắc bốn phương tám hướng.
Đầu Năm Có Nên Dâng Sao Giải Hạn?
Tục dâng sao giải hạn có mặt trên đất nước ta từ hằng bao thế kỉ và con người đã ăn sâu vào tiềm thức, nên mỗi năm vào dịp đầu xuân nhà nhà cúng sao giải hạn khi có ai trong gia đình gặp phải ngôi sao xấu, hạn không tốt. Họ cho rằng khi cúng như vậy thì sao xấu đó sẽ biến thành sao tốt và sống yên tâm hơn. Từ nguyên thủy tục cúng này chỉ có trong các gia đình, nay trong một số chùa đầu năm cũng ghi danh sách các gia đình Phật tử để làm lễ dâng sao giải hạn, với việc làm này nhiều người đã thắc mắc dâng sao giải hạn có trong giáo lý nhà Phật không? Dâng sao giải hạn như vậy có thể làm suy thoái lòng tin đến với đạo pháp không?
Trước hết, trong giáo lý nhà Phật không có nghi thức cúng dâng sao giải hạn nhưng có nghi thức cúng cầu an vào đầu năm. Sở dĩ trong nhà chùa có làm lễ cầu an đầu năm cho Phật tử với mong ước gia đình quý Phật tử được an lạc hạnh phúc, nhưng khi làm lễ cầu an là tụng kinh Phật, nương theo lời dạy của Ngài mà hành trì theo để cuộc sống được bình an hơn, rồi cúng Mông Sơn Thí Thực, phóng sanh, phóng sanh đăng. chúng tôi
Danh sách được ghi để cầu an đó phải đến chùa cùng tụng niệm, cùng nhất tâm hướng thiện. Còn cầu an mà chỉ ghi danh rồi giao phó chùa nhà chùa cứ đọc tên thì chẳng có lợi gì. Trong kinh Địa Tạng đức Phật dạy, tụng kinh hay làm bất cứ một việc gì để hồi hướng cho người thân (đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh) thì người được hướng đến chỉ nhận được 30% còn người xướng lên làm hoặc đang tụng niệm đó hưởng phước đến 70%. Cho nên khi cầu an hay cầu siêu đòi hỏi người nhà phải có mặt cùng cầu nguyện để mong sự hữu ích và thiết thực hơn.
Cầu an là một công việc rất hữu ích vì đó cũng là phương tiện dẫn dắt con người đến chùa trì tụng những gì đức Phật dạy để thực hành, khi tụng: thân, miệng, ý thanh tịnh và đưa lời dạy của Thế Tôn vào sâu trong tâm khảm để hành trì theo lời dạy đó.
Những lời đức Thế Tôn dạy luôn khiến con người bỏ ác làm lành; nếu đã làm ác thì nay không làm, nếu đã làm thiện phải cố gắng làm thêm, và đã làm thiện ngày càng phát huy hơn nữa. Với thiện nhân đã được gieo xuống chắc chắn sẽ nhận được các quả vị tốt đẹp ngọt ngon. Không gieo trồng, hay vẻ người ta trồng giúp trên đất của họ, giống của họ thì mình chẳng có hái được cái gì.
Thật vậy nhân quả rõ ràng, không thể một người gieo nhân người khác gặt quả, chuyện đó thật phi lý.
Mình con nhà Phật luôn phải tin theo nhân quả, vì nhân quả nói lên sự thật việc làm thật mà hằng ngày mình đã gieo. Gieo nhân gì gặt quả đó, không thể gieo hạt xoài mà gặt quả cam. Nhưng từ nhân tới quả phải có duyên kết hợp vì một nhân chưa chắc đã thành quả, duyên là điều kiện cần và đủ để quả hình thành.nguoiphattu.com
Phóng sanh cầu an một việc làm ý nghĩa đầu năm.
Một nhân không phải cho ra một quả mà nó cho ra rất nhiều quả, ví như gieo hạt xoài qua thời gian chăm bón cây xoài sẽ cho ra trái xoài nhưng rất nhiều trái và cây đó sống rất nhiều năm lại cho ra vô số trái, thì việc làm thiện hay ác cũng vậy. Khi tạo một nhân bất thiện làm cho người khác đau khổ hoặc chết, không những cái thân họ đã ôm hận với đối tượng làm mà kéo theo gia đình, vợ chồng, con cái, ông bà, bà con lối xóm nữa.
Những người này không chỉ đau khổ một lần rồi hết mà kéo dài nhiều năm, nhiều tháng khi nhớ lại ngày người chết họ cúng, cái cúng đó mục đích để tưởng nhớ lại người quá vãng năm xưa đã làm gì và sống sao, nhắc lại câu chuyện đó nhưng người chết không còn sống, họ thấy luyến tiếc và đau khổ, như vậy họ sẽ nghĩ tới người đã gây ra cái chết người thân. Vậy cái khổ đó không chỉ một lần là chấm dứt mà kéo dài miên miễn. Nhân thiện cũng vậy khi tạo nghiệp lành họ sẽ vui và có sự vui lây.nguoiphattu.com
Mình là con nhà Phật mình sẽ tin vào nhân quả nghiệp báo. Hằng ngày phải sống thế nào, làm thế nào để đêm về không lo sợ, không thao thức, sống an lạc, vững chải, chánh niệm. Muốn được như vậy thì phải thọ trì trai giới, giữ giới thanh tịnh luôn tin vào nhân quả chắc chắn luôn luôn bình an.
Dâng sao giải hạn như trên đã nói không có trong giáo lý nhà Phật đó là tập tục truyền thống của dân gian. Nhưng tại sao lại đưa vào nhà chùa để làm lễ dâng sao giải hạn. Đúng thật trong Phật giáo không có nghi thức này nhưng tùy vào quốc độ tùy vào căn cơ của mỗi chúng sanh nên phương tiện để hướng dẫn Phật tử đến chùa tu tập nên việc đó được coi như là một phương tiện để độ chúng sanh, nhưng phải làm cách nào để hợp pháp thì mới đúng với đạo lý, còn làm theo như thế tục thì việc đó không thể.
Chúng tôi thấy có một số chùa khi Phật tử tới nhờ làm lễ dâng sao giải hạn, quý Thầy ghi danh nhưng buổi lễ đó được thực hiện như một nghi thức cầu an là tụng kinh lễ Phật, rồi cúng Mông Sơn Thí Thực, phóng sanh. Còn cúng theo nghi thức thế gian của những ông Thầy cúng điều đó không đúng.
Tại sao chúng ta có thể cầu an, cầu an hay cầu siêu cũng thế thôi để giúp người an tâm hơn, yên trí để lo tu tập và làm việc, vì có nhiều người nghe sao hạn xấu lại lo sợ, buồn bã, chán nản,… và không làm được gì cả hoặc sống một cách bi quan vì tôi làm gì tôi cũng bị như thế, như thế. Nên đó là một phương tiện nếu có thể làm để người ta yên tâm thì làm chứ đừng vì mục đích gì khác.
Vì đạo Phật là “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”, những việc làm đó nên làm cho những người sơ cơ chưa hiểu biết và chưa tin Phật pháp lại cố chấp theo lời ông bà, cha ông để lại thì phương tiện thiện xảo khéo dụ dẫn người ta để đi đến đạo pháp và dẫn lần cho họ biết tin vào nhân quả và nghiệp báo.
Những người đã trở thành Phật tử chân chánh thì không nên tin vào những chuyện đó, và không nên làm những việc đó. Phải luôn luôn thấu hiểu và áp dụng về nhân quả nghiệp báo, nghiệp chứ không phải là định mệnh hay số mệnh như câu trong Kiều:
“Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
Từ nhân đưa đến quả là qua quá trình duyên, nghiệp là hành động có tác ý, khi tạo một cái gì đó được gọi là nghiệp không phải chúng ta sẽ nhận quả báo như thế. Tùy theo ý thức khi tạo nghiệp và hành động tiếp theo đó, nghiệp thì có nghiệp thiện và nghiệp ác, nếu như ta lỡ tạo nghiệp bất thiện nhưng chúng ta biết ăn năn hối cải, sám hối việc đã làm thì quả báo sẽ khác, còn chúng ta tạo ra rồi mà dững dưng không lo sợ, không ăn năn thì quả báo sẽ khác.
Ví dụ, khi sân hận không kềm chế được lòng nên đã đánh họ trọng thương kết quả thế nào? Sẽ có hai phương án tiêu biểu: nếu chúng ta không lo sợ việc làm đó hoặc chúng ta cậy nhờ vào quyền lợi kết quả sẽ sao khi đối tượng mình gây ra cũng chẳng kiên nể, hậu quả … cả đời không nhìn thấy nhau. Ngược lại mình thấy hành vi của mình thô lỗ, xấu xa, mình đến xin lỗi mong người ta tha thứ, lại luôn luôn quan tâm bệnh tình người đó một cách chân thành kết quả nhiều lúc thành bạn bè thân thiết.
Cuộc đời là vô thường, vạn pháp là vô ngã nên không có gì là vững chải bền lâu, tất cả đều được chi phối theo luật vô thường nên nghiệp cũng không phải không chuyển được mà “tu là chuyển nghiệp” như thế người ta mới lo tu. Mình là con Phật phải hiểu rõ điều đó, sợ nghiệp nặng, sao xấu, hạn không may thì lo tu, niệm Phật thật nhiều, sám hối thật nhiều, bố thí cúng dường thật nhiều lúc đó khỏi cần sao xấu sao tốt lúc đó “thong dong tất dạ rứa mà vui “.
Dâng Sao Giải Hạn Đầu Năm: Vung Tiền Cúng Lễ Có Tránh Được Vận Hạn?
Vậy dâng sao giải hạn là gì mà lại có thể khiến nhiều người đến thế tiêu tốn vô số tiền bạc?
Nguồn gốc của dâng sao giải hạn – Thiên văn học cổ Trung Hoa
Dâng sao giải hạn là một trong những ứng dụng vào đời sống của thiên văn học cổ Trung Hoa. Người xưa cho rằng số mệnh của con người có thể xem và biết trước được bằng cách lập lá số theo thời gian sinh và sắp xếp lá số theo quy luật của các vì sao, từ đó đoán trước cát hung và tìm cách để đón lành tránh dữ.
Vì thế mà khoa thiên văn học Trung Hoa có thể nói là cha đẻ của mọi khoa chiêm tinh, đẩu số sau này. Hơn thế nữa, các nhà thuật số còn gây được trong dân gian một phong trào thờ sao cúng sao, mà ta thường gọi là “Dâng sao giải hạn”. Xin liệt kê ra một số môn phổ biến nhất như:
1. Khoa Tử Vi Đẩu Số
Khoa này do Đạo sĩ Trần Đoàn thời Tống tạo ra, nó thường dùng khoảng 108 vì sao lớn nhỏ để đoán định về số kiếp vận hạn con người. Đây là khoa duy nhất mà chúng tôi đánh giá cao vì đã áp dụng những triết lý tu thân của Đạo gia vào phương pháp suy đoán vận mệnh.
Nó đã ghi dấu trong lịch sử với những huyền thoại đoán mệnh còn lưu truyền từ thời Tống và thời Trần (Việt Nam). Nhưng trải qua nhiều năm, môn này đã thất truyền và hiện nay không còn ai có thể sử dụng đúng giá trị của nó, gồm tất cả các nhà tử vi nổi tiếng khắp thế giới.
2. Diễn Cầm Tam Thế
Diễn Cầm Tam Thế dùng Nhị thập bát tú để đoán định về số mạng con người theo nguyên tắc “Niên vi cốt, Nguyệt vi bì” (năm sinh thuộc sao nào làm cốt; tháng sinh thuộc sao nào làm da; cốt da vừa nhau thời tốt; da cốt không vừa nhau thời xấu).
3. Khoa Bát Tự
Nhị thập bát tú cao siêu ở trên trời nay biến thành những con thú đủ loại nơi trần thế. Ví dụ: Giác là con sâu, Cang là con rồng, Đê là con nhím, Phòng là con thỏ, Tâm là con chồn, Vỹ là con cọp, Cơ là con báo, v.v.
Khoa Bát Tự cũng là một khoa đẩu số chỉ dùng Can Chi của năm, tháng, ngày, giờ sinh và 48 vì sao để đoán định mệnh con người. Khoa này do Trần Tử Bình lập vào đời Tống, và giản dị hơn tử vi.
4. Khoa Lục Nhâm
Khoa này nếu dùng đúng, kết hợp với phong thủy thì chính là bộ môn đã từng phục vụ cho giới vua chúa các triều đại. Tuy nhiên cũng như tử vi, khoa này đã thất truyền hoàn toàn. Những điều còn lưu lại đều không đáng nhắc đến.
5. Khoa Nhật Nguyệt Tinh
Khoa này chỉ dùng khoảng 30 sao để đoán định may rủi của từng ngày từng giờ. Gồm có: Thập nhị tướng (Chu Tước,Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ, Thái Âm (Mặt trăng), Thập nhị thần (Thái Ất…)
Khoa này chỉ dựa vào Mặt Trời (Thái Dương), Mặt Trăng (Thái Âm) và Ngũ Tinh là:
– Kim Tinh (Thái Bạch)– Mộc Tinh (Mộc Đức)– Thủy Tinh (Thủy Diệu)– Hỏa Tinh (Vân Hán)– Thổ Tinh (Thổ Tú)
Cộng với La Hầu (Rahou) và Kế Đô (Ketou) để đoán may rủi mỗi năm. Họ còn bày ra cách cúng sao để giải hạn.
Tất cả những khoa đẩu số, lý số nói trên tuy đều dựa vào ảnh hưởng của các vì sao để đoán định họa phúc con người, nhưng hoàn toàn xa lạ với các ứng dụng thực tế của khoa thiên văn học Trung Hoa.
Người xưa có dâng sao giải hạn hay không?
Thiên văn hay chiêm tinh là quan sát các vì sao trên trời để suy ra họa phúc nơi trần thế, trên thì có thể giúp vua định ra chính sách cai trị quốc gia, dưới thì giúp quan lại và nhân dân biết mùa màng mà canh tác, biết địa thế phong thủy mà xây dựng cơ nghiệp, hoàn toàn không phải để cho thường nhân dùng để chiêu tài, cầu may và tránh rủi.
Câu trả lời là “có”. Mặc dù chúng tôi không công nhận hiệu quả thực tế của việc dâng sao giải hạn, nhưng quả thật trong lịch sử cũng đã từng có chuyện dâng sao giải hạn được ghi lại như sau:
Người dâng sao nổi tiếng nhất chính là Gia Cát Lượng, quân sư và nhà quân sự thiên tài thời Tam Quốc, được giới thuật số suy tôn là ông Tổ của ngành đoán mệnh và chiêm tinh đẩu số. Cùng với bộ tiểu thuyếtTam Quốc Diễn Nghĩa mà câu chuyện cúng sao của ông đã đi vào huyền thoại :
“Đêm hôm ấy, Khổng Minh gượng bệnh ra trướng, ngẩng xem thiên văn. Xem xong, Khổng Minh kinh hãi lắm, vào trướng bảo Khương Duy rằng: “Ta nguy đến nơi mất rồi!”
Duy nói: “Sao thừa tướng lại dạy thế?”
Khổng Minh nói: “Ta thấy trong ba ngôi sao Tam thai, ngôi khách tinh sáng lắm mà ngôi chủ tinh thì u ám, các sao tướng phụ bóng tối lờ mờ. Xem tượng trời như thế đủ biết mệnh ta”.
Lễ dâng sao trong sử sách:
Duy nói: “Tượng trên trời đã thế, sao thừa tướng không dùng phép dâng sao giải hạn mà kéo lại được không?”.
Khổng Minh nói: “Ta vốn biết phép ấy, nhưng chưa biết lòng trời làm sao. Ngươi hãy dẫn bốn mươi chín tên giáp sĩ, cầm cờ thâm, mặc áo thâm, đứng vòng quanh ngoài trường, ta ở trong cầu đảo sao Bắc Đẩu. Nếu như trong bảy ngày, ngọn đèn chủ không tắt, thì ta sống lâu thêm được một kỷ nữa. Nếu đèn tắt, ta không thọ được. Phàm những người tạp nhạp, không được cho vào. Những đồ gì ta cần dùng đến, cứ sai hai đứa tiểu đồng trang biện là đủ”.
Ngày xưa các quan trông coi thiên văn của Hoàng gia chính là những người đề xuất và tổ chức các lễ dâng sao khi quan sát thấy một số thiên tượng đặc biệt xuất hiện nhằm mục đích để xin Thiên Thượng bảo hộ cho hoàng tộc và quốc gia tránh khỏi tai ương.
Tấn thư – Thiên Văn chí chép: “Đời Minh Đế, năm Thái Hòa nguyên niên (323), quan thái sử lệnh là Hứa Chí tâu rằng: “Sắp có nhật thực, xin được cùng với quan thái úy đi làm lễ dâng sao”.
Như vậy dâng sao giải hạn thực chất là một nghi lễ có thật trong lịch sử, tuy nhiên mục đích của nó và người thực hiện đều rất cao cả vì dân vì nước chứ không phải biến tướng như hiện nay khi mà nhà nhà người người đều mong chờ cúng sao để tiêu tai giải hạn cầu may cho bản thân mình.
Ai có thể làm dâng sao giải hạn?
Việc dâng sao giải hạn cũng chính là nạn nhân của thời gian và sự tam sao thất bản cùng lòng tham của thế nhân đã biến một học vấn siêu phàm trở nên quá tầm thường và dung tục. Theo chúng tôi thì việc dâng sao giải hạn là có thật nhưng nó không được dùng phổ biến ở nhân gian và hiện nay đang được dùng sai trên quy mô lớn bởi các lý do sau:
Thực chất việc dâng sao giải hạn chép trongTam Quốc Diễn Nghĩa là có thật. Nó chính là một bí thuật của Đạo gia (chứ không phải của Phật gia) và chỉ có thể được thực thi bởi những người tu luyện chân chính trong một số trường hợp đặc định.
Như ví dụ trên thì Gia Cát Lượng mong muốn kéo dài tuổi thọ để tiếp tục phò vua giúp nước và không phải lúc nào cũng thành công vì Thiên ý hầu như không thể thay đổi.
Gia Cát Lượng hay các nhà cầm binh danh tiếng ngày xưa như Tôn Tẫn, Quỷ Cốc Tử, Trần Hưng Đạo đều là người tu Đạo hay ít nhất cũng là đệ tử ngoại môn của Đạo gia chứ không phải là một người thường.
Ngay cả các quan trong Khâm Thiên Giám mà có đề xuất Hoàng đế làm lễ dâng sao thì cũng phải là những người chuyên nghiệp trong nghiên cứu về lý số và thiên văn hàng đầu quốc gia.
Vậy việc hiện nay người dân thường kéo đến đình hay chùa mong muốn dâng sao giải hạn là việc đã sai ngay từ đầu. Chùa đình không thể làm dâng sao giải hạn, họ tổ chức việc đó mục đích chính là kiếm tiền mà thôi.
Dâng sao là gì?
Và dĩ nhiên các đạo sĩ chân chính như Gia Cát Lượng vốn là người tu Đạo sẽ không bao giờ xuất hiện nơi người thường để thu tiền mà làm lễ cho thường dân được.
Nên nếu bạn không tìm được bậc đạo sĩ chính tông thì tốt nhất không nên dâng sao vì nó sẽ không có tác dụng gì hết. Đây chỉ là cơ hội làm giàu cho thầy cúng, người buôn hàng mã và viết sớ mà thôi.
Người xưa thờ Trời nên việc xem thiên văn thiên tượng mà định ra chính sách quốc gia là quan trọng nhất. Ngoài ra còn có thể dùng ứng dụng của thiên văn học vào việc làm lịch, định ra lịch nông nghiệp, tiết khí để người dân theo đó mà cày cấy nuôi trồng.
Giải hạn thực chất là gì?
Triều đình xưa có hẳn cơ quan chuyên trách thiên văn và lịch số (Khâm Thiên Giám) và các chức quan này đều có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đến Hoàng đế trong các quyết sách.
Các vua chúa Trung Hoa và Việt Nam xưa còn dùng bầu trời như là một đài quan sát để kiểm soát, để theo dõi tình hình các miền trong nước và phiên trấn. Vì thế mới phân trời đất thành châu, thành dã.
Mỗi vùng trời lại ứng với vùng đất, rồi nhân các thiên tượng xảy ra ở vùng trời nào thì biết được các biến cố sẽ xảy ra ở vùng đất nào. Dâng sao chính là nghi lễ mà vua chúa dùng khi thấy các thiên tai dị tượng xảy ra nhằm cầu mong cho quốc gia an định và không xảy ra loạn lạc chiến tranh.
Vận hạn chính là tiến trình lên xuống biến đổi của vạn vật và hay được dùng để chỉ trạng thái của một quốc gia hay của một giai đoạn nào đó của đời người. Vận hạn hanh thông là tốt và ai cũng mong cầu, trái lại ai cũng sợ vận hạn xấu sẽ ảnh hưởng đến thân thể sức khỏe, của cải và có khi tiêu tan cả sự nghiệp.
Trung Dung viết: “Quốc gia tương hưng tất hữu trinh tường; quốc gia tương vong tất hữu yêu nghiệt” (Khi nước sắp hưng thịnh sẽ thấy những điềm lành; khi nước sắp nguy vong, sẽ thấy những điềm gở).
Ví dụ như đời Hán: “Những năm Nguyên Quang (134-129) và Nguyên Thú (122-117) đời Hán Vũ Đế sao chổi cờ Si Vưu lại xuất hiện hai lần, dài choán nửa vòm trời. Sau đó quân ở kinh sư xuất chinh 4 lần, giết Hung Nô trong vòng mấy chục năm, chinh phạt rợ Hồ còn khốc liệt hơn nữa”.
Và nước Việt ta cùng với Cao Ly trước khi bị mất nước: “Khi nước Việt mất (111 TCN) sao Huỳnh Hoặc (Hỏa Tinh) đóng ở chòm sao Đẩu (sao Nam Đẩu là phân dã của Ngô-Việt). Khi Cao Ly bị diệt (108 TCN) có sao chổi hiện ra ở vùng Hà Giới (ở vào các chòm sao Nam Hà và Bắc Hà)”.
Nguồn gốc của việc giải hạn khi cúng sao thời cổ thực chất chính là dùng nghi lễ cúng tế kết hợp với việc tu dưỡng thay đổi nội tâm của người cúng (nhà vua) mà cảm động đến lòng Trời để dừng việc trách phạt xuống trần gian.
Vậy ngày nay có cần thiết phải dâng sao giải hạn hàng năm?
Ngoài ra để thực hiện nghi lễ có hiệu quả thì yêu cầu ngày xưa rất nghiêm khắc. Nhà vua chẳng những phải kiền tịnh thân thể trong một thời gian dài thanh tâm quả dục (tĩnh tâm và kiêng không gần gũi nữ sắc) sau đó còn phải thành tâm xuống chiếu tự trách mình, nhận lỗi với thiên hạ và chủ động thay đổi chính sách không phù hợp.
Vì vận hạn xấu tốt là do Trời định căn cứ theo tội nghiệp hay phước đức của nhà vua (và cả quốc gia) mà thi hành, nên chỉ có thể giải hạn khi nhà vua thật tâm thay đổi, dùng lòng thành mà cảm động lòng trời, đạt đến Thiên Nhân giao cảm thì mới có công hiệu.
Tấn thư – Thiên Văn Chí chép:
“Đời Minh Đế, năm Thái Hòa nguyên niên (323), quan thái sử lệnh là Hứa Chí tâu rằng: “Sắp có nhật thực”, xin được cùng với quan thái úy đi làm lễ nhương sao.
Vua phán: “Ta nghe rằng nếu chính trị của loài người mà không hẳn hoi, thời Trời lấy những điềm tai dị mà đe dọa để khuyến cáo. Khuyến cáo cốt để cho họ sửa mình. Cho nên nhật nguyệt che khuất lẫn nhau để tỏ rõ rằng phép cai trị có điều chẳng phải.
Xuân Thu chép:
“Trẫm từ khi tức vị đến nay không làm rạng sáng được thánh đức của các bậc tiên đế, và cách thi nhân giáo hóa có điều không hợp với Hoàng Thần (Hoàng Thiên), vì thế nên Trời cao muốn thức tỉnh để trẫm sửa đổi lại nền hành chánh, tu tỉnh lại hạnh kiểm ngõ hầu báo đáp thần minh.
“Trời đối với người y như cha đối với con. Chưa có cha nào muốn khiển trách con, mà con có thể làm bữa cơm thịnh soạn dâng lên, xin tha lỗi được.
“Nay hình hạc bề ngoài sai quan thượng công và quan thái sử lệnh cùng đi làm lễ nhương sao, thì lẽ ấy chưa từng nghe thấy vậy.
“Quần công, khanh sĩ, đại phu phải cố gắng làm chu toàn phận vụ để bồi bổ những chỗ trẫm còn khuy khuyết. Bèn phong thưởng tất cả”.
“Mỗi khi có nhật thực vua thường ăn bớt bát để tỏ lòng hối hận, lại sai vua chư hầu dâng lễ vật ở đền xã để tỏ lòng tôn kính thần minh. Vua chư hầu đánh trống ở triều đình mình như muốn nhắc dân phải hết lòng phụng sự quốc quân”.
Qua ví dụ trên ta thấy rằng cổ nhân thực ra không cổ hủ và lạc hậu như chúng ta hay cố tình gán ghép. Họ cho rằng việc quan trọng nhất mà một người chân chính cần làm thực ra không phải dâng sao giải hạn mà phải lo hoàn tất những nghĩa vụ và nhiệm vụ của bản thân mình một cách hoàn thiện nhất thì mới không lo trời Phật trách phạt.
Điều ấy hoàn toàn hợp lý, minh bạch và thực tế, trong khi đó chúng ta, những con người của thế kỷ 21 tự hào về khoa học kỹ thuật mà lại mê muội mong rằng những mâm cỗ cúng, những tờ sớ viết vội vã và những tâm mong cầu lại có thể giúp ta tai qua nạn khỏi, vậy ai dám nói mình sáng suốt hơn người xưa?
Họ hoàn toàn không còn quan tâm đến những mong cầu của con người mà chỉ phù hộ cho những ai là người tốt với tâm trong sáng nhất mà họ biết được. Do đó khi chúng ta mang những tâm mong cầu bình an, tài lộc mà dâng cúng sao lên thì khác nào dâng những thứ rác rưởi lên trước mặt Thần linh?
Vậy thì làm thế nào mà lại có thể giải hạn được, tôi nghĩ là không thể được mà còn đem lại tội nghiệp vô tận cho người dâng sao.
Chúng ta đang ở đâu trong vũ trụ, chúng ta có số mệnh hay không, mệnh số của ta do ai quyết định và làm thế nào để nghênh lành tránh dữ?
Để trả lời cho những vấn đề trên, cổ nhân Đông phương đã có tri thức đáng kinh ngạc về vạn vật, về vũ trụ lưu truyền cho đến ngày hôm nay. Trong đó kho tri thức vĩ đại nhất chính là thiên văn học, mà di sản xuất sắc nhất của nó còn đến hôm nay chính là thiên văn học cổ Trung Hoa, cùng thiên văn học cổ Ấn Độ vốn phổ biến trên khắp châu Đông Á, Bắc Á và Đông Nam Á.
Đây cũng là nguồn gốc chân thực của dâng sao giải hạn, một trong những ứng dụng của thiên văn học cổ đại Trung Hoa. Nó giúp người xưa củng cố thêm niềm tin và tôn kính với Thần linh (người đã truyền lại nền văn minh cho họ) cố gắng trau dồi đạo đức và sống thuận theo ý trời để đạt được sự an bình trường tồn cho quốc gia và dân tộc.
Trước thế kỷ 16, phương Đông (Trung Hoa, Ấn Độ, Việt Nam, Nhật Hàn) quả thật đã đi trước phần còn lại của thế giới, họ đã có những nghiên cứu rất sâu sắc về bầu trời, các vì sao và ứng dụng của chúng đến với vận mệnh con người và quốc gia, quân sự, phong thủy, v.v.
Nhưng thế sự biến đổi vô thường đã làm mất đi hầu hết những tinh hoa quan trọng nhất, làm biến dị những gì còn sót lại. Điều đó khiến cho hậu nhân ngày nay nhắm mắt mà cười chê ông cha là lạc hậu, trong khi hàng năm vẫn vô tư bái lạy một cách hàm hồ để cầu mong tiêu tai giải nạn, thăng quan phát tài.
Mong rằng bài viết này sẽ giúp mọi người chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn để đem lại hạnh phúc cho bản thân bằng cách sống cuộc sống đúng đắn và đạo đức, đừng tiêu tốn thời gian và tiền bạc một cách vô bổ nữa. Chúc mọi người một năm mới không cần cúng sao cũng an lành và hạnh phúc!
Bạn đang đọc nội dung bài viết Cách Làm Lễ Dâng Sao Giải Hạn Ở Đâu Năm 2022? trên website Asus-contest.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!